Cả đoạn trích xoay quanh một cái trục lớn: nỗi đau dứt tình của Kiều. Để bắt đúng mạch chảy tâm lí Kiều, cần nắm chắc “tình thế thơ” để phát hiện ra “thế tâm trạng” của nhân vật. Khai thác tận cùng khả năng của phương thức tự sự. Nguyễn Du luôn “gài” nhân vật vào tình thế hiếm để buộc nhân vật phải bộc lộ sâu sắc tính cách, thế hiểm của Kiều là thế trao duyên - tức là cái thế dồn tận chân tường. Cái khổ nhất của người đàn bà chưa phải là mất tình duyên, mà phải chính mình trao duyên mình cho kẻ khác (dù là em gái). Khó khăn đối với cả nhân vật và tác giả là: Kiều làm sao có thể thuyết phục được Thúy Vân chấp nhận mối tình của Kiều trao lại một cách thoải mái, trong khi chính Kiều cũng cảm thấy không thoải mái chút nào - nói đúng hơn là Kiều đứt ruột trao duyên? Tài năng của Nguyễn Du là đã khơi đúng dòng chảy tâm lí tinh tế, phức tạp, đầy mâu thuẫn của Kiều, qua lời thỉnh cầu thiết tha và lời sám hối nhức buốt của người đàn bà bất hạnh.
Trước hết là lời thỉnh cầu. Đoạn thơ mở ra một tư thế lạ:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giọng điệu mới dạo đầu mà quá thiết tha, trang trọng, báo hiệu điều gì không bình thường, “cậy” (khác “nhờ”): sâu nặng tin cậy với gửi gắm, nương tựa “chịu” (khác với “nhận”) đầy van vỉ, ép nài. Quả là đưa mấy chữ, Nguyễn Du đã cân được sức nặng của một tình thế, một tâm trạng lắt léo, trớ trêu và khó nói. Đặc biệt là tư thế, đảo lộn cả quan hệ chị em (nhất là trong gia đình nề nếp xưa) em “ngồi lên” - quyền uy, chị “lạy”, “thưa” - bề dưới, nhún nhường. Kiều đã tạo ra tư thế lụy phiền bằng cách hạ mình rất thấp. Kiều ý thức sâu sắc cái khó khàn, tế nhị của tình thế, ở cả phía mình v’ phía Vân, khiến khúc nhạc dạo đầu bi kịch trao duyên đã thấm đẫm tâm trạng.
Chọn được tư thế đúng đã khó. Trình bày được lí lẽ đúng càng khó hơn. Hai câu mở đầu Kiều mới tạo được sự chú ý cho Vân, những câu sau phải gánh nặng nhiệm vụ thuyết phục. Kiều đã giải quyết như thế nào?
+ Kiều nhập chuyện bằng cách kể lại cảnh ngộ khó xử của mình (câu 3 - câu 8 “giữa đường đứt gánh... hai bề vẹn hai”). Chỉ sáu câu trần thuật mà gói gọn sự - lí - tình. Sự (nhắc lại chuyện Kiều phải dứt tình thâm với Kim Trọng để bán mình chuộc cha?, lí (khi hiếu tình xung đột, Kiều hi sinh chữ tình cho chữ hiếu để hợp đạo làm con? tình (thuật chuyện mà cứ thổn thức, nồng nàn nên càng chua chát: đứt gánh tương tư - keo loan - điệp từ “khi”...). “Sự” làm nền, “lí” thuyết phục, “tình” gợi cảm thông. Ba điều ấy hội tụ đủ dọn một con đường cảm thông từ Kiều sang Vân.
+ Khơi được mạch cảm thông, Kiều mới tha thiết thỉnh cầu (câu 9 đến 12: “Ngày xuân em hãy còn dài... còn thơm lây”). Lời thỉnh cầu có ba tầng hoặc bậc: cậy vào tuổi trẻ của Vân “hãy còn dài”, tha thiết hơn là cậy đến chỗ thẳm sâu của “tình máu mủ” để đẩy tới cao trào là lấy cả linh hồn kẻ bạc phận để biết ơn “ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”. Ba tầng bậc cũng hướng về một nguyện ước “thay lời nước non”. Thật tha thiết, chân tình mà chặt chẽ. Kiều tỏ ra rất hiểu mình, hiểu người - điều tạo nên sức mạnh thuyết phục. Nhiệm vụ chính đã hoàn thành.
- Song Kiều còn là người chu đáo - sự chu đáo của một trái tim đang rỉ máu. Sau khi tạo được không khí cảm thông, Kiều mới lấy những kỉ vật của mình với Kim Trọng trao cho em: chiếc thoa, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền... Bây giờ tình yêu không còn là hoài niệm mà hiện diện đầy đủ trong kỉ vật. Kiều cảm thấy mình đứng trước sự mất mát to lớn không gì bù đắp được. Cho nên, tay Kiều trao mà hồn Kiều run lên:
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Câu thơ đầy sức chứa. Tạo ra sự mâu thuẫn giữa hình thức nói và nội dung nói, sự phi lí nằm ngay trong lời Kiều: hình thức càng rành rẽ (phân biệt riêng chung rõ ràng: “duyên” thì dành cho Thúy Vân, “vật” thì “của chung” hai người), nội dung càng mâu thuẫn (trong tình yêu, “duyên” nhập vào “vật”, kỉ vật là dạng vật chất của tình yêu, làm sao tách bạch được). Tình yêu là sản phẩm của cái duy nhất. Quy luật này đã được Hoạn Thư - ở cái quan niệm đa thê - phát hiện tinh tế trong câu nói giản dị mà sâu sắc: “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. Vậy tại sao trao duyên cho
Em, Kiều vẫn cô níu kéo một chút gì trong hai chữ “của chung”? Đó là nỗi bất lực trước một tình thế tuyệt vọng. Oái oăm thay, càng vớt vát, Kiều càng nhận ra sự mất mát. Cái vô lí của lời nói là cái có lí của một trái si tình đang giãy giụa.
Vì thế Kiều càng nói, càng đáng thương. Nỗi đau phát triển thành hình ảnh/ oan hồn thật dữ dội (từ câu 19 đến 26: “Mai sau dầu có bao giờ... Rày xin chén nước cho người thác oan”). Vì sao có hình ảnh thảm khốc này? Với Kiều, tình yêu là toàn bộ cuộc sống, nên tình mất, nghĩa là Kiều chết. Hồn oan là một cái chết tinh thần, là ác mộng của kẻ đang tuyệt vọng. Hồn oan được miêu tả với hai câu đặc sắc: xóa nhòa hai ngồn ngữ (lời đối thoại với Vân thành lời độc thoại của Kiều - nỗi đau làm Kiều đánh mất ý thức về hoàn cảnh), xóa nhòa hai thế giới (thế giới thực hòa tan vào thế giới ảo, cõi âm vọng lời lên cõi trần, gợi ra hình ảnh hết sức ảo não mong manh nhưng sâu nặng vô cùng: “Trông ra ngọn cỏ lá cây - Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”). Hai chữ “chị về” thật quyết liệt: Kiều chỉ muốn chết thể xác mà không muốn chết tinh thần, tức là quyết giữ lấy cái đang bị mất, Kiều tột cùng đau thương, song cũng tột cùng với sự chống trả số mệnh. “Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng” - Kiều chao đảo giữa mất và còn, giữa trao đi và giữ lại, giữa bị tước đoạt và quyết giữ... Chính sự mâu thuẫn này làm hồn ma kia trở nên sát người, tiếng nói như vọng từ cõi âm mà rất trần thế. Lòng Kiều với đời, với tình yêu không gì phá vỡ được.
Tám câu còn lại của đoạn trích là nỗi niềm sám hối. Sau khi hoàn thành “nhiệm vụ” “thỉnh cầu” một cách chua chát, hình thức đối thoại với Vân chuyển đổi triệt để sang cuộc độc thoại (khi tự nói với mình, khi lại nói với bóng hình Kim Trọng), tạo nên một ngôn ngữ trữ tình đa giọng, đa âm - điều hiếm có trong văn học trung đại.
Trở về với chính mình, Kiều càng bị giằng xé: một bên là nỗi mất mát không gì cứu vãn nổi (trâm gẫy, bình tan, tơ duyên ngắn ngủi...) một bên là dòng thác tình yêu càng thêm khôn xiết (kể làm sao xiết muôn vàn ái ân).
Bi kịch đẩy tới điểm đỉnh khi bóng hình Kim Trọng trùm lên, choáng ngợp hồn Kiều. Kiều thét lên để rồi chết ngất đi trong tiếng thét xé lòng của chính mình:
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Tên Kim Trọng vang lên hai lần trong một câu thơ, vừa nồng nàn vừa cuống quýt. Cuống quýt mà biết bao trân trọng: “Kim lang” (chứ không gọi chính tên). Từ “phụ” tạo một lối rẽ tâm lí bất ngờ. “Phụ” là bội ước, bội bạc. Tại sao Kiều - con người như biểu tượng của chu đáo, ân tình, chuyện bán mình là do hoàn cảnh khách quan dồn đến chân tường, không cho nàng một sự lựa chọn nào khác - bất ngờ lại tự phủ định, tự trút lỗi cho mình? Phải chăng có một chút lúng túng trong bút pháp Nguyễn Du, tác giả đã đi chệch đường biên của logic nghệ thuật? Phải chẳng Kiều hoảng loạn nên mất thẳng bằng?
Lí giải điều này là cả một vấn đề phức tạp, tế nhị nhưng lí thú. Đọc truyện Kiều, người đọc luôn vấp phải những lối rẽ bất ngờ như thế. Nhưng bất ngờ mà vẫn hợp lí. Kiều đớn đau nhưng không hoảng loạn. Dòng chảy tâm trạng Kiều bị chi phối bởi chiều sâu tính cách. Kiều sám hối không phải vì tội lỗi mà vì nhân cách. Logic của Kiều là logic của trái tim: tình thương của Kiều dành cho Kim Trọng lớn tới mức Kiều quên cả bản thân mình. Kiều thương nỗi đau của Kim Trọng hơn nỗi đau của mình, tạo ra một mặc cảm tội lỗi mà đầy cao thượng. Cho nên chữ “phụ” thắp sáng vẻ đẹp nhân cách của nàng Kiều.
Giải pháp trao duyên là giải pháp dùng chữ “nghĩa” thay cho chữ “tình”. Người thông minh như Thúy Kiều ắt hiểu đó là giải pháp bất ổn song lại là duy nhất. Sự bất lực khiến Kiều bị dằn vặt mình. Một kiểu dằn vặt của người luôn sống vì người khác. Sự dằn vặt của lương tâm, của nhân cách, thật nhân hậu.
Với đoạn trích “Trao duyên”, Nguyễn Du đã vượt qua một “ca” tâm lí phức tạp, giàu kịch tính. Bút pháp tự sự và trữ tình tìm được điểm gặp gỡ tuyệt diệu, khơi được mạch tâm linh vừa lắt léo vừa phức hợp, vừa logic qua dòng chảy của những câu thơ lục bát kì lạ, mang một âm hưởng trữ tình bi thiết nhiều tầng lớp.
Từ đoạn trích hiện lên trái tim rớm máu mà đầy nhân hậu của Thúy Kiều. Đoạn thơ góp phần bộc lộ chủ nghĩa nhân văn cao cả của Nguyễn Du: ông đã cúi xuống những số kiếp bất hạnh để sẻ chia và để cùng họ thét lên nỗi niềm phẫn uất trước một xã hội phi nhân tính.