Thực dân Pháp lại tiến đánh Kỳ Hòa và ngày 14-12-1861 (tháng 11 năm Tân Dậu) chúng đánh úp ba xứ Cần Giuộc Tân An, Gò Công. Hai hôm sau nhân đêm rằm, nghĩa quân của ba xứ nổi dậy đột kích quân Pháp đóng ở Cần Giuộc, nghĩa binh phá đồn giặc, đốt nhà lao, giết chết tên quan hai Pháp và một số lính mã tà người Mã Lai và Phi Luật Tân, nghĩa binh hi sinh khoảng mười tám người.
Sau thắng lợi này, tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, bạn của Nguyễn Đình Chiểu có nhờ ông làm bài văn tế những nghĩa binh tử trận. Cuộc điếu tế làm ở Cần Giuộc với bài văn có tên là Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc. Nghĩa binh phần lớn là nông dân ở các đồn điền do nhà Nguyễn lập ra để khai thác sáu tỉnh Nam Bộ. Vì thế người ta thường gọi là “dân mộ nghĩa” hoặc dân “đồn điền” để phân biệt với quân chính quy của triều đình. Và bài văn tế còn có tên là Văn tế vong hồn dân mộ nghĩa.
Bài văn thuộc giai đoạn thứ hai cuộc đời sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu nhưng xét trong bộ phận văn thơ yêu nước của tác giả thì đây là một trong những sáng tác đầu tiên, đồng thời có giá trị mở đầu cho cả dòng văn học yêu nước chống Pháp bằng chữ Nôm nửa sau thế kỉ XIX.
Tình hình chung thời kì này, trong khi nhân dân Nam Bộ tiếp tục vùng lên chống xâm lược thì quân đội của triều đình bị thua nhiều trận, rút lui dần. Vua chúa nhà Nguyễn tuy chưa đầu hàng nhưng càng bạc nhược, lúng túng.
Xuất phát từ lòng yêu nước thương dân tha thiết, Nguyễn Đình Chiểu bày tỏ nỗi tiếc thương vô hạn đối với những nghĩa sĩ nông dân đã bỏ mình vì nước, đề cao tấm gương hi sinh chiến đấu anh dũng của họ để động viên lòng yêu nước căm thù giặc, ý chí kiên quyết chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta thời đó.
Toàn bài có 30 câu làm theo lối Đường phú độc vận với kết cấu thông thường của văn tế, gồm bốn phần;
1) Lung khởi (câu 1-2). Nêu rõ chủ đề: Sự hi sinh vẻ vang của những người nông dân vì đại nghĩa mà chống giặc.
2) Thích thực (câu 3-15). Giới thiệu những người nông dân mộ nghĩa với cuộc đời lao động nghèo khổ, tinh thần anh dũng cứu nước và thành tích giết giặc của họ.
3) Ai vãn (câu 16-28). Bày tỏ lòng tiếc thương của tác giả và của nhân dân đối với liệt sĩ.
4) Kết (câu 29-30). Ca ngợi linh hồn bất diệt của các liệt sĩ.
1. Lung khởi:
Bài văn mở đầu bằng hai câu tứ tự (bốn từ):
“Sáng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”
Với hình thức ngắn gọn, câu văn mang một nội dung hàm súc vì đã dựng nên được khung cảnh bão táp của thời đại, khái quát đầy đủ hai mặt của biến cố chính trị lớn lao: một bên là cuộc xâm lăng ào ạt, tàn bạo của kẻ thù với vũ khí tối tân (tiêu biểu là thứ súng nạp hậu, tiếng nổ và sức công phá dữ dội hơn hẳn thứ súng cổ lỗ của phong kiến); một bên là vai trò và ý chí chống xâm lăng của nhân dân khi bình thời vốn tiềm ẩn thầm lặng nay bỗng hiện lên sáng ngời rực rỡ. Hai mặt đó trong thực tế lịch sử đã xung đột mãnh liệt, chi phối toàn bộ thời cuộc cho nên không phải là ngẫu nhiên mà tác giả đã dùng những yếu tố không gian rộng lớn “đất’’ “trời”, kèm theo hai động từ “rền”, “tỏ” làm thành một hình ảnh thống nhất nhưng lại mang mâu thuẫn nội tại gay gắt, nêu bật được tính chất nghiêm trọng và quyết liệt của tình thế. Bằng cách đối chọi ‘'súng giặc” với “lòng dân” tác giả đồng thời biểu hiện một quan điểm nhìn nhận thời cuộc khá sâu sắc và tiến bộ.
Tiếp theo, tác giả giới thiệu khái quát về người nông dân trong sản xuất và trong chiến đấu.
“Mười năm công vỡ ruộng chưa ắt còn, danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất, tiếng vang như mõ”
Bằng hình ảnh này, tác giả đồng thời nói lên chủ đề của bài văn: Người nghĩa sĩ nông dân tuy đã hi sinh nhưng danh tiếng còn vang dội.
Đặt vào hoàn cảnh lúc đó, khi Đại đồn đã thất thủ và quân tướng triều đình đang hoang mang, dao động trước những tổn thất, thương vong : thì việc ca ngợi cái chết vẻ vang của nghĩa sĩ phải coi là một thái độ cứng cỏi, có tính chiến đấu mạnh mẽ.
Mặt khác, mối quan hệ tương phản giữa hai vế, nhất là sự tương phản giữa “mười năm công vỡ ruộng” và “một trận nghĩa đánh Tây” đã phản ánh 1 chân thực sự chuyển biến đột xuất, sức vùng lên mau lẹ của những người nông dân yêu nước giống như cái vươn vai thần kì của Thánh Gióng. “Người chiến sĩ của nghĩa quân vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước” (Phạm Vàn Đồng).
Hai câu lung khởi ngắn gọn đã làm đủ chức năng của nó: một mặt khái quát được bối cảnh lịch sử với hình tượng trung tâm của thời đại, một mặt nêu rõ chủ đề tư tưởng, đó là thái độ ca ngợi cái chết vẻ vang, tinh thần bất diệt của những người nông dân yêu nước đã hi sinh trong trận Cần Giuộc.
2. Thích thực:
Trong phần này, bằng một bút pháp cụ thể và sinh động Nguyễn Đình Chiểu tập trung mô tả hình tượng người nghĩa quân trong cả một quá trình đi từ cuộc đời lao động âm thầm cực khổ đến cuộc đời chiến đấu anh dũng vẻ vang.
Mở đầu đoạn văn cũng lại là hai câu tứ tự:
“Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó”
Hai vế sóng đôi chính là hai nét hiện thực căn bản theo nhau như bóng với hình trong cuộc sống của người nông dân xưa kia: làm ăn vất vả quanh năm mà nghèo khó lo toan suốt đời.
Chỉ dùng tám chữ nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã chứa đựng trong đó bao nhiêu kiếp sống nặng nề và cả tấm lòng bùi ngùi mến thương vô hạn. Hoài Thanh có lời bình: “Biết bao nhiêu yêu thương trong một chữ côi cút”.
Chuyển đến những câu sau (câu 4-9) không dùng cách khái quát cô đọng như trên mà bằng những chi tiết cụ thể, mộc mạc nhưng rất chọn lọc, tiêu biểu, tác giả đã giới thiệu quá trình người nông dân tự giác đứng lên vì nghĩa lớn.
Người nông dân nghèo khổ vốn rất xa lạ với việc binh đao, một sự xa lạ bắt nguồn từ nề nếp sinh hoạt và lao động:
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung
Chỉ biết ruộng trâu, ở theo làng bộ
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Có thế thấy trong cách diễn tả ở đây, tác giả đã dùng nhiều thủ pháp kết hợp: những chi tiết chân thực, cách đối ý chặt chẽ giữa hai vế trong câu văn biền ngẫu và đặc biệt là một số từ hình thái tương phản mạnh mẽ như “chưa quen” đối với “chỉ biết”, “vốn quen” đối với “chưa quen” đã biểu hiện sâu sắc bản chất hòa bình của cuộc sống lao động, của người nông dân lao động.
Do đó khi xảy ra chiến sự, họ đã trải qua một tâm trạng lo âu, hồi hộp kéo dài.
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng”.
(Chữ phập phồng dùng khá chính xác vì đây không phải là tâm lí khiếp sợ). Là người dân dưới chế độ phong kiến, họ buộc phải trông chờ ở quan trường triều đình, bồn chồn như mong mỏi một vị phúc tinh; “Trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Dĩ nhiên không thể coi đó là một thái độ tiêu cực trước nguy cơ của đất nước vì thời này trách nhiệm lãnh đạo toàn dân vẫn thuộc về sứ mệnh của giai cấp phong kiến thống trị. Nhưng thực tế lịch sử ngày càng chứng tỏ vai trò bất lực, ươn hèn và thái độ vô trách nhiệm của giai cấp phong kiến đương thời mà tiêu biểu là triều đình nhà Nguyên đối với vận mệnh của nhân dân, đất nước.
Chúng ta còn nhớ, ngay sau tiếng súng đầu tiên của bọn Pháp xâm lược trên đất Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu đã từng phải thốt lên:
“Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này!”
(Chạy giặc)
Cho nên không thể nào khác là người nông dân Cần Giuộc phải uổng công trông đợi và trạng thái thất vọng sẽ là một tiền đề tâm lí cho sự vùng dậy sau này.
Trong khi đó, ách ngoại xâm cùng với biết bao hành động tội ác của nó ngày càng đè nặng lên cuộc sống như một thứ “Mùi tinh chiên”, như “thói mọi”. Chất chứa bao nhiêu căm ghét trong lòng người dân lương thiện:
“Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ” ở đây cũng như ở vế trên của câu văn, có thể lưu ý đến thủ pháp so sánh giàu tính dân gian của Nguyễn Đình Chiểu để diễn tả cụ thể và sâu sắc những nét tâm lí vốn trừu tượng như “trông đợi”, “căm ghét”. Đồng thời kết hợp với yếu tố thời gian như “Hơn mười tháng”, “đã ba năm” câu văn còn biểu hiện được cả sự vận động tịnh tiến chân thực của tình cảm.
Chính vì thế, đến câu tiếp theo, sự căm ghét đã được nâng lên thành một thái độ căm thù mãnh liệt sẵn sàng bùng nổ ra bằng hành động.
“Bữa thấy bòng bong trôi trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ”
Người nông dân vốn hiền lành trầm tĩnh đến đây đã có một bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng: không thể thụ động trông đợi triều đình mà phải kiên quyết tự mình đứng lên giết giặc cứu nước.
Diễn tả được rạch ròi, tự nhiên và chân thực sự đột biến đó phải kể là một thành công nữa trong nghệ thuật của tác giả. Quả thật không phải ngẫu nhiên mà những chi tiết miêu tả sự hoành hành ngang nhiên khiên khích của quân thù đã được dùng với những màu sắc kích động “trắng lốp”, “đen xì” để đủ sức tạo nên những phản ứng tâm lí tự nhiên và quyết liệt “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Và cả câu văn là một chỉnh thể cân đối giữa các ý vừa biểu hiện, vừa lí giải được một trạng thái căm thù cháy bỏng, dữ dội một cách chính đáng và chân thực.
Có thể so sánh với cách biểu hiện căm thù của một vài cây bút đương thời để rõ thêm đặc sắc của phong cách Nguyễn Đình Chiểu:
Hoàng giáp Lê Khắc Cẩn viết:
“Mí mắt rách toang, tóc đầu chỉ ngược
Thề lột da giặc để làm áo nằm,
Thề ăn thịt giặc thay cơm nước”.
Bảng nhãn Phạm Thanh tả:
“Giặc kia, mắt ta chẳng thèm trông, khi giận đùng đùng xông lên mũ đội”.
Ở đây lối viết cầu kì kiểu cách đã hạn chế rất nhiều chất sinh động và chân thực của hình ảnh.
Trở lại với Nguyễn Đình Chiểu, có thể nói chỉ bằng hai câu 6 và 7, tác giả đã diễn tả một cách sâu sắc, thỏa đáng sự phát triển tất yếu của tính cách trong mối liên hệ tự nhiên và chặt chẽ với hoàn cảnh thông qua một hình thức nghệ thuật giản dị, cụ thể đậm đà tính cách dân gian.
Câu sau tiếp tục nâng cao ý chí căm thù trong sự gắn bó sâu sắc với ý thức công dân về trách nhiệm bảo vệ giang sơn thống nhất của Tổ quốc:
“Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu: Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lủ treo dê bán chó”.
Đây là ý nghĩa cao quý về đại nghĩa nên tác giả đã dùng những hình ảnh kì vĩ “xa thư đồ sộ”, “nhật nguyệt chói lòa” lại thêm những hư từ “há để”, “đâu dung” làm cho câu văn đượm vẻ trang trọng như một lời tuyển ngôn chính trị.
So với các giai đoạn văn học trước trong đó con người mới tự ý thức về cá nhân mình, ở đây con người tự ý thức về nghĩa vụ trực tiếp đối với đất nước, dân tộc như vậy, phải xem là một bước phát triển. Và càng có giá trị hơn nữa khi sự xuất hiện đầu tiên lại ở trong hình tượng người nông dân đánh giặc.
Rõ ràng theo quan niệm của Nguyền Đình Chiểu, người nông dân Cần Giuộc đứng lên giết giặc cứu người với đầy đủ sự giác ngộ cần thiết mà thời đại cho phép. Quan niệm này được lịch sử hoàn toàn xác nhận giá trị chân thực qua việc nghĩa dân Gò Công - cũng dòng máu nông dân ấy - đã “chẳng nghe thiên tử chiếu đón ngăn mấy dặm mà tiền” trên đường đi nhậm chức của tướng quân Trương Định. Và sẽ càng thấy cách suy xét của nhiều tên Pháp xâm lược hồi đó cho rằng nghĩa quân “can đảm một cách mù quáng” là hồ đồ, ngu ngốc biết bao!
Xuất phát từ sự giác ngộ nói trên, tư thế của con người bước vào chiến đấu là một tư thế hiên ngang, hăm hở đầy tự tin:
“Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình: chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Điều đáng chú ý ở đây là thái độ của người nông dân đối với chiến tranh đã hoàn toàn thay đổi. Nếu như trước kia, trong chiến tranh của vua chúa họ đã tìm mọi cách lẩn trốn, có người thay cả họ tên, bỏ cả quê quán thì giờ đây họ lại hăng hái tham gia chiến đấu. Tình hình đó có nguyên nhân khách quan là tính chất cuộc chiến tranh đã khác trước nhưng xét về mặt chủ quan, rõ ràng họ có ý thức phân biệt chiến tranh phi nghĩa và chiến tranh chính nghĩa. Chán ghét chiến tranh phi nghĩa bao nhiêu họ lại tự giác xông vào chiến tranh chính nghĩa bấy nhiêu. Hơn thế, ở đây họ đã tự động tiến hành chiến tranh chính nghĩa để chống chọi với bạo lực phi nghĩa của kẻ thù.
Câu văn giản dị đã bao hàm một chân lí lớn chẳng những có giá trị đối với đương thời mà cho đến nay vẫn còn giàu ý nghĩa vì vẫn chưa hết những quan niệm mơ hồ về chiến tranh và hòa bình. Lịch sử hàng nghìn năm đã chứng tỏ, ở thời đại nào cũng vậy, bọn hiếu chiến khát máu không ngoài những giai cấp bóc lột. Còn quần chúng lao động chỉ cầm vũ khí trong trường hợp vạn bất đắc dĩ, nói như Nguyên Đình Thi là:
“Đạp quân thù xuống đất đen,
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”.
Người nông dân ở đây cũng vậy. Có điều khi họ đã nổi giận đứng lên thì kẻ thù không tránh khỏi những cơn sấm sét.
Vốn suốt đời nghèo khổ nên họ cũng xuất hiện ở chiến trường với đủ thứ thiếu thốn dường như đó là một cái duyên nợ truyền kiếp.
Chiếu rèn luyện võ nghệ, binh thư:
“Mười tám ban võ nghệ nào đợi tập rèn: chín chục trận binh thư không chờ bày bố”.
Chiếu tập tành tối thiểu về cơ ngũ:
“Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ theo vòng ở lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp, dân lăn mến nghĩa làm quân chiêu mộ”.
Thiếu mọi thứ trang bị như “bao tấu bầu ngòi”, “Dao tu nón gỗ” đến đỗi chống với đạn lạc tên rơi mà “ngoài cật có một manh áo vải”
Có thể nói họ bước vào chiến đấu với cả cuộc đời nghèo khổ trên lưng làm cho chúng ta khi đọc lại mấy câu văn mô tả của Nguyễn Đình Chiểu không khỏi ngậm ngùi thương cảm.
Hình ảnh của họ dường như chưa phải là hình ảnh người chiến binh hoặc như ta thường nói “người nông dân mặc áo lính” mà vẫn là bóng dáng quen thuộc của họ trong gia đình, ngoài đồng ruộng với những dụng cụ thô sơ sẵn có: “một ngọn tầm vông”, “một lưỡi dao phay”, “một nắm rơm con cúi”.
Đọc kĩ đoạn văn, có thể khẳng định rằng tác giả nêu lên tình cảnh kể trên không phải với thái độ tủi cực tự ti mà chính là với một niềm tự hào sâu sắc phản ánh đúng tinh thần hăng hái bất chấp khó khăn thiếu thốn của nghĩa quân trong chiến đấu. Cách đối chọi chan chát các ý trong câu văn, cứ mỗi khó khàn là kèm theo những từ phủ định mạnh mẽ như “nào đợi”, “không chờ” “chi nài”...
Vượt qua mọi gian nguy, với tinh thần “mến nghĩa”, với khí thế hăng hái, tự hào, người nông dân cần Giuộc đã xông lên mạnh như vũ bão “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, hiên ngang tung hoành, hò reo náo động:
“Kẻ đâm ngang người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh: bọn hè trước, ũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ”.
Ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu đến đây như bay nhảy lên vô cùng sảng khoái với hàng loạt động từ tràn đầy sinh lực và dũng khí; “đạp, lướt, xô, xông, đâm, chém, hề, ó” tiếp nối nhau theo một nhịp điệu, dồn dập sôi nổi.
Tất nhiên trong một cuộc giao chiến quá chênh lệch về nhiều phương diện, nghĩa quân không tránh khỏi tổn thất hi sinh nhưng họ đã nêu tấm gương anh dũng tuyệt vời và đã viết nên những trang sử chống Pháp đầu tiên của dân tộc bằng ý thức tự giác và bằng máu thắm của mình.
Ý nghĩa quan trọng của trận đánh không những ở chỗ họ đã lập được chiến công ọanh liệt như tác giả mô tả chân thực “đốt xong nhà dạy đạo... chém rớt đầu quan hai” mà còn ở chỗ họ đã làm sáng tỏ một số chân lí của thời đại, của lịch sử. Đó là chân lí về tinh thần yêu nước và vai trò tự giác của nông dân trong thời kì cận đại, chân lí về khả năng chiến thắng của ý chí con người đối với vũ khí tối tân, chân lí về sức mạnh của chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích. Cho nên có thể nói là thắng lợi quân sự đồng thời là thắng lợi chính trị, chẳng những có tác dụng động viên chiến đấu ở đương thời mà còn là bài học đáng quý cho hậu thế.
Nhìn chung lại, ở phần thích thực này, hầu như Nguyễn Đình Chiểu đã không dùng đến một hình thức mĩ từ pháp nào mà chỉ những chi tiết thực, tinh ròng chất sống cùng với ngôn ngữ giản dị giàu chất dân gian và lối kết cấu tự nhiên hợp lí dựng nên hình ảnh quen thuộc nhưng thật là đột xuất, giàu chất anh hùng ca của người nông dân cần Giuộc. Và đó cũng là hình tượng nông dân chân thực nhất, đặc sắc nhất trong văn học cố điển, bao nhiêu năm sau chưa có cây bút nào vượt được.
3. Ai vãn:
Phần này thường nhắm trực tiếp bộc lộ tình cảm đối với người đã khuất, ở đây là tình cảm của tác giả, của nhân dân và của gia đình đối với các nghĩa sĩ.
Điểm khởi, phát sự diễn biến tình cảm trong đoạn văn là cảnh ngộ éo le mà tác giả đã dùng để chuyển tiếp:
“Những lam lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ”
Tấm lòng vị nghĩa lớn lao đáng lẽ phải được phục vụ lâu dài cho đất nước, như ý nguyện chung, nhưng sinh mệnh con người lại chấm dứt một cách bất ngờ ngắn ngủi. Thực tế phũ phàng gây nên xúc động mạnh, ở đây lại càng mãnh liệt hơn vì không phải là sự xúc động của một tâm hồn bình thường trước cái chết thông thường mà là sự xúc động của con người nặng lòng yêu nước trước cái cao cả của những người anh hùng cứu nước.
Tầm cỡ đặc biệt và tính nhân dân sâu sắc của tình cảm trong đoạn văn bắt nguồn từ đó.
Tình cảm bao trùm là nuối tiếc thương các liệt sĩ.
Như trên đã nói, nuối tiếc thường nảy sinh từ cảnh ngộ éo le; cuộc đời chiến đấu của nghĩa sĩ chưa thỏa chí bình sinh mà cái chết đã phũ phàng ập tới.
Cảnh vật vốn vô tri từ “bóng trăng”, đến “dòng nước” dường như cũng cảm kích trước tấm lòng trung nghĩa.
Càng tiếc thương hơn vì đó là những con người rất mực hiền lành, lương thiện mà quyền làm ăn sinh sống là hoàn toàn chính đáng.
“Tấc đất ngọn rau ăn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo nạ đời, mắc mớ chi ông cha nó”
Cho nên mất họ, nhân dân ngậm ngùi thương nhớ. Mất họ, gia đình đau khổ bơ vơ. Mất họ, nạn dân ách nước càng thêm bối rối.
Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu ở đây, quả thật đã nức nở trên từng trang giấy. Nỗi đau thương man mác bao trùm cảnh vật và thấm vào từng câu, từng chữ, trong giọt nước mắt của bà mẹ già bên ngọn đèn khuya trong bước chân bơ vơ của người vợ yếu dưới bóng xế chiều.
Từ những âm thanh sầu thảm vang vọng lên qua đoạn văn, chúng ta không phân biệt được đâu là tiếng khóc của tác giả, của nhân dân, gia đình mà như nghe thấy một tiếng khóc chung của đất nước. Có thể nói Nguyễn Đình Chiểu đã rung động đến tận đáy lòng mình khi viết những câu văn trên do nhiều nguồn cảm thương hợp lại.
Chúng ta không khỏi liên tưởng đến Hồ Chủ tịch khi điếu đồng chí Hồ Tùng Mậu, cũng chất chứa trong lòng bao nguồn thương tiếc;
“Mất chú, đồng bào mất người lãnh đạo tận tụy, Chính phủ mất một cán bộ lão luyện. Đoàn thể mất một người anh em chí thiết. Mấy nguồn thương tiếc cộng vào trong một lồng tôi”.
Ở đây, nói về nghệ thuật, quả thật không phải chỉ là vấn đề bút pháp mà điều căn bản là cảm xúc chân thành và sâu nặng của tâm hồn, đó là gốc của nghệ thuật trữ tình. Sự thành công của Nguyễn Đình Chiểu trước hết do chỗ tình cảm của tác giả đã hòa chung với tình cảm của nhân dân, của thời đại. Tác giả đã không sử dụng gì hơn là những chất liệu thường gặp trong văn chương cổ điển: một bóng trăng, một ngọn đèn khuya, một ánh trăng xế, một tiếng khóc... nhưng tất cả được kết hợp bằng một chất xúc cảm thân thiết, chân thực nên đã có sức rung động sâu sắc đối với người đọc.
Tình cảm lớn thứ hai là lòng cảm phục cái chết vẻ vang của nghĩa sĩ. Nguyễn Đình Chiểụ đã đặc biệt đề cao cái chết vẻ vang của nghĩa sĩ. Đó là cái chết để tỏ rõ ý chí căm thù, kế tục truyền thống bất khuất của dân tộc: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh”. Đó là cái chết tròn nợ với nước non, được nhân dân sáu tỉnh đều khen và “muôn đời ai củng mộ”. Hình ảnh tập trung thái độ cảm phục và ca ngợi là ở câu tứ tự:
“Ôi! Một trận khói tan, ngàn năm tiết rỡ”.
Bằng cách diễn tả cô đọng, hàm súc, Nguyễn Đình Chiểu đã làm hiển hiện lên khí tiết cao quý của nghĩa sĩ như một vầng dương rực rỡ. Tất nhiên đây là một thủ pháp nghệ thuật nhưng vẫn có nội dung ý nghĩa chân thực vì lịch sử đã chứng tỏ rằng những cuộc chiến dù dữ dội đến đâu cũng không thể lưu lại đầy đủ chứng tích qua không gian và thời gian mà cái còn lại ngàn năm không phai mờ là tiếng thơm của người trung nghĩa, cái đó sống mãi trong lòng mến thương, cảm phục của nhân dân qua các thế hệ.
Cùng với việc đề cao cái chết vẻ vang của nghĩa sĩ, Nguyễn Đình Chiểu đã không tiếc lời mạt sát cách sống nô lệ:
“Sống làm chi theo quân tà đạo; quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ”.
Có lẽ không đáng gọi là “sống” vì con người ở đây phải lìa bỏ tín ngưỡng của cha ông chịu điều sỉ nhục về tinh thần, phải ăn uống đê tiện chịu nỗi cơ cực về vật chất.
Khỏi phải nhắc lại cái tài chọn lọc chi tiết chân thực và tiêu biểu, chỉ riêng việc dùng hai động từ “chia” và “gặm” đủ chứng tỏ khả năng biểu hiện chính xác và cách châm biếm sâu cay của Nguyễn Đình Chiểu.
Mạnh hơn nữa, tác giả còn phủ định hoàn toàn cách sống nhục nhã nói trên bằng một câu giản dị, thâm trầm:
“Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ”.
Trong tình thế rối ren lúc đó khi những tư tưởng cầu an đớn hèn đang trỗi dậy, vào hùa với bạo lực phi nghĩa của kẻ thù làm mờ ám lương tri con người, thái độ khẳng định cái chết vinh hơn cái sống nhục có một ý nghĩa chiến đấu trực tiếp, quyết liệt. Nó rất gần gũi với ý chí kiên quyết của Hồ Chủ tịch trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” vừa tròn 85 năm sau:
“Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Ở đây không chỉ là lòng cảm phục và ca ngợi cái chết vẻ vang của nghĩa sĩ mà bề sâu của vấn đề là qua đó Nguyễn Đình Chiểu đã xác định điểm mấu chốt trong nhân sinh quan thời đại, đó là thái độ của con người trước cái sống và cái chết trong cơn bão táp của cuộc chiến tranh ái quốc. Và ông đã giải quyết vấn đề trên một lập trường yêu nước kiên cường, dứt khoát, không dung thứ bất kỳ tư tưởng xu thời, cơ hội nào.
Xét về mặt nghệ thuật, bài học rút ra kết hợp với phần trên là bài học về tư tưởng tình cảm.
Thật vậy, nếu không có lòng yêu nước nồng nàn, sâu sắc thì dù cho với kĩ thuật điêu luyện cũng khó viết nên được những chi tiết thấm thìa cái nhục nô lệ như “chia rượu lạt”, “gặm bánh mì” hoặc đặt câu theo lối so sánh quyết liệt như “Thà thác mà đặng câu địch khái... hơn còn mà chịu chữ đầu Tây”, v.v...
Có thể nói trong đoạn văn này, tư tưởng tình cảm đã trực tiếp quyết định sự thành công về nghệ thuật.
Nếu như chúng ta cảm phục và ca ngợi cái chết vẻ vang của nghĩa sĩ bao nhiêu thì chúng ta lại càng thấm thía bấy nhiêu về những tổn thất đau thương do quân xâm lược tàn bạo gây ra và càng thêm nung nấu căm thù. Dường như, ngay những người đã chết, nếu có một kiếp tái sinh, mối thù đó vẫn không sao nguôi được. Điều này gần như một quy luật của phản ứng tích cực về tâm lí trong cảnh ngộ bi phẫn nên Nguyễn Đình Chiểu đã có thể viết:
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia...”
Linh hồn nghĩa sĩ, trong tưởng niệm thành kính của tác giả, vẫn níu lấy cuộc sống để theo đuổi đến cùng sự nghiệp giết giặc cứu nước bởi vì những cái gì thuộc về chính nghĩa có thể nào diệt vong được. Cũng tương tự như những nỗi niềm đau thương, căm giận, tin tưởng của nhà thơ Tố Hữu trước mối thù Phú Lợi:
“Ôi chết thế, không thể nào chết được!
Không thể chết, những người dân yêu nước!
Những con người không chịu ô danh”...
Những con người đó không chết vì theo một ý nghĩa nhân sinh cao cả mà đây cũng là quy luật của hiện thực, họ vẫn tồn tại trong lòng những người đã và đang tiếp tục sự nghiệp chiến đấu vẻ vang của họ để lại.
Khi kết thúc bài văn, Nguyễn Đình Chiểu đã trở về với tâm trạng của người đang sống để nói lên mối cảm thương sâu nặng trong lòng mình cũng như trong lòng nhân dân đương thời:
“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân
Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”.
Ý thức trung quân còn ràng buộc Nguyễn Đình Chiểu trong những khái niệm công thức “thiên dân, vương thổ” nhưng những tình cảm thống thiết của ông vẫn được biểu hiện chân thành trong giọt “nước mắt” khóc người anh hùng và “cây hương thơm” đốt lên để tưởng vọng trang nghĩa sĩ.
Qua bài văn tế, điều in sâu trong tâm trí người đọc là hình tượng người nông dân cần Giuộc đã từ cuộc đời lam lũ nghèo khổ tự giác đứng lên giết giặc cứu nước, tiêu biểu cho ý chí bất khuất của dân tộc ta trong buổi đầu chống Pháp, cách đây hơn một thế kỉ. Ngày nay mọi người đã hiểu biết nhiều về nông dân nhưng một hình tượng cụ thể sinh động như vậy vẫn giúp bổ sung những điều sâu sắc hơn nữa về quá khứ vẻ vang, về vai trò lịch sử, về truyền thống yêu nước của nông dân, trực tiếp ở đây là nông dân Nam Bộ - do đó nâng cao tư tưởng tình cảm đối với lực lượng cơ bản của cách mạng.
Hơn thế, hình tượng nghĩa sĩ cần Giuộc còn giúp củng cố thêm một số nhận thức chân lí quan trọng, trong đó điều sâu sắc và còn nguyên vẹn tính chiến đấu là: sức mạnh chính nghĩa của nhân dân đã giác ngộ hoàn toàn có thể chống chọi được bạo lực phi nghĩa của kẻ thù với cả vũ khí tối tân. Sự nghiệp chống Mĩ cứu nước toàn thắng của các dân tộc trên bán đảo Đông Dương cũng như sự nghiệp giải phóng của nhiều dân tộc khác trên thế giới càng chứng minh hùng hồn chân lí đó trước lịch sử nhân loại.
Về mặt nghệ thuật, bài văn này mang tính chất bi hùng khác hẳn giọng điệu sầu cảm thê lương của lối văn tế thông thường. Nói cho rõ hơn, tuy gọi là văn tế nhưng thực chất có thể xem như một bản anh hùng ca của văn học Việt Nam thời cận đại. Và hình tượng nông dân do Nguyễn Đình Chiểu xây dựng nên là một trong những hình tượng đẹp nhất của văn chương cổ điển, đánh dấu thành công xuất sắc về bút pháp hiện thực và trữ tình của một nhà nho phong kiến.
Tất nhiên thời đại và giai cấp của Nguyễn Đình Chiểu cũng đặt ra cho ông những giới hạn nhất định nhưng bằng những cảm xúc máu thịt của mình, ông đã viết nên nhiều dòng bất hủ.
Nếu trong kho tàng văn học dân tộc đã có những đỉnh cao về nhiều thể loại như Hịch của Trần Hưng Đạo, Phú của Trương Hán Siêu, Cáo của Nguyễn Trãi... thì ta lại có thêm đỉnh cao về thể văn tế với sự đóng góp của Nguyên Đình Chiểu.
Bài văn tế này từ khi ra đời đã được truyền tụng rộng rãi và đã gây nên những rung cảm sâu sắc trong tâm hồn nhân dân ta qua nhiều thế hệ. Cho nên ngày nay trong hoàn cảnh cả nước đã hoàn toàn độc lập và thống nhất, nếu có dịp được dựng đài kỉ niệm nhà thơ đất Đồng Nai anh dũng, chúng ta cũng có thể khắc ở đó những dòng tương tự như nhân dân I-ta-li-a đã khắc dưới tượng Đô-an-ni Pa-skhơ-li, nhà thơ lớn của họ.
“Người rồi sẽ chết, nhưng nhân dân là bất tử.
Nhưng nhà thơ đã làm rung động tâm hồn nhân dân bằng thơ ca của mình cũng sẽ mãi mãi bất tử”.