Vì sao chị em Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam đêm nào cũng cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua

Thứ năm - 28/11/2019 11:42
Đề: Vì sao chị em Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam đêm nào cũng cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua? Thể hiện tâm trạng đợi tàu của “hai đứa trẻ” và những người dân phố huyện, Thạch Lam muốn nói gì với người đọc?
Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất của Thạch Lam. Đó là một truyện ngắn trữ tình. Truyện không có truyện. Nhân vật là nhân vật trữ tình. Tất cả nội dung của truyện đều xoay quanh tâm trạng của chị em một cô gái tên là Liên, nhân vật chủ yếu ca tác phẩm. Nhân vật của Thạch Lam nói chung là thế; không có suy nghĩ gì sâu sắc, thường chỉ thể hiện những cảm giác, những vui buồn nào đấy. Họ thường ngồi yên lặng lắng nghe tiếng nói thầm kín của lòng mình, ít phân tích lí giải đề xuất những khái quát triết lí như thường thấy ở nhân vật Nam Cao.                                                               

Nhưng đằng sau thế gii nhân vật với những tâm trạng như thế, người ta thấy thấp thoáng nhân vật tác giả, người kể chuyện. Nhân vật này thì giàu suy tư, thường phát biểu bằng một giọng dịu dàng nhỏ nhẹ những tư tưởng có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc.      

Tác phẩm tự nó chia làm ba đoạn:
- Đoạn một: Tâm trạng Liên trước cảnh chiều muộn nơi phố huyện.        
- Đoạn hai: Tâm trạng Liên trước cảnh đêm tối nơi phố huyện.
- Đoạn ba: Tâm trạng chị em Liên khao khát được thấy chuyến tàu đi qua phố huyện. Chính ở đoạn ba này, chủ đề của tác phẩm đã được phát biểu một cách sâu sắc và thấm thía. Chủ đề ấy chính là lời giải đáp câu hỏi: "Tại sao chị em Liên đêm nào cũng cố thức để được nhìn chuyến tàu qua?".

Nhưng tác phẩm văn học là một chính thể. Vậy muốn giải đáp câu hỏi trên, nhất thiết phải gắn đoạn ba với đoạn một, đoạn hai của thiên truyện.

Ba đoạn gắn bó với nhau theo logic tâm trạng của nhân vật Liên để cuối cùng tô đậm tư tưởng của truyện ở đoạn kết thúc.

Đoạn một thể hiện tâm trạng buồn của Liên trước quang cảnh tàn lụi của cảnh thiên nhiên và những cảnh đời nơi phố huyện lúc chiều muộn.

Tâm trạng này tác giả đã ghi rõ trong đoạn văn: "Liên ngổi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập dần và cái buổn của buổi chiều quê thấm thìa vào tâm hổn ngây thơ của chị, Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng bun man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn".

Ngày tàn trước hết được báo hiệu bằng tỉếng trống thu không như gọi buổi chiểu về. Phương tây tuy đô rực như ỉửa cháy nhưng cũng chỉ là ánh hồng của "hòn than sắp tàn". Bóng tối lấn dần lấn dần... Nhìn xuống mặt đất, là cảnh chợ tàn, không có gì vui bằng lúc chợ đông, nhưng cũng không có gì buồn hơn cảnh chợ tàn.

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Câu thơ trong bài Tràng giang của Huy Cận thật buồn.
Buồn vì người ta vể hết cả, tiếng ồn náo nhiệt cũng tắt. Sự sống như tàn lụi. Cái nghèo nàn tự phô bày không che đậy ở những rác rưởi bỏ lại, ở mấy đứa trẻ nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh những cái vặt vãnh còn có thề dùng được của những người bán hàng để lại...

Những con người quen thuộc với chị em Liên nơi phố huyện cũng vậy, đều là những cuộc đời tàn lụi: cái hàng nước lèo tèo của chị Tí thỉ ế khách ("ôi chao, sớm hay muộn mà có ăn thua gì”), cửa hàng của chị em Liên cũng vậy ("Hôm nay ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì”). Hình ảnh cụ Thi điên lảo đảo bước đi càng tô đậm một cảnh ngộ bế tắc: "Cụ đi lẫn vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng".

Đoạn hai thể hiện tâm trạng buồn và chán của Liên trước những cuộc đời tối tăm quẩn quanh đơn điệu của những cư dân nơi phố huyện.
Tất cả đều diễn ra dứng như những đêm trước, như hàng    -7
trăm đêm trước. Đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối. Các nhà đã đóng im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, chỉ hé một khe ánh sáng. Sau cửa hàng nước chị Tí là gánh hàng bác phở Siêu mà chị em Liên đã biết chắc, chắn ngay khi còn ở xa như một chấm lửa nhỏ và vàng "lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra". Rồi đến gia đình bác Sẩm với cái thau sắt trắng chỏng trơ và thằng con bò ra đất nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát... Đúng là những kiếp người không bao giờ biết đến hạnh phúc. Hiện tại thì cực khổ, tương lai thì mù mịt. Sự tổn tại của họ dường như chỉ là để chờ đợi vu vơ một cái gì may mắn không bao giờ xảy đến: "Chừng ấy người trong bóng tối mong đợì một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày".

Được tô đậm nét nhất ở đoạn này là hình ảnh những .kiếp sống tối tăm. Điều đáng chú ý ở đây là cái tối tâm ỉạí được diễn tả bằng ánh sáng, thứ ánh sáng leo lét của ngọn đèn con nơi chõng hàng nước của chị Tí, đối chọi một cách yếu ớt đến thàm hại trước "vũ trụ thăm thẳm bao la" trùm trên cáỉ phố huyện nghèo; không phải ngẫu nhiên mà thiên truyện ngắn vẻn vẹn chỉ co' mấy trang mà hình ảnh ngọn đèn hàng nước chị : Tí được nhắc đi nhắc lại bảy lấn. Nó trở thành một biểu tượng vễ những kiếp sống mù tối, lắt lay cùa những cư dân nghèo khổ tưởng chừng bị chôn vùi đến cùng đời mãn kiếp trong bóng tối của cái phố huyện tiêu điều đã bị cuộc sống bỏ quên này.

Hai đoạn trên chuẩn bị cho đoạn ba. Buổn chán trước cảnh đời phố huyện, chị em Liên cuối cùng cũng tìm ra được một lối thoát: trông đợi để được thấy chuyến tàu đem đi qua phố huyện.                                 

Một lối thoát không phải trong thực tế mà trong tưởng tượng. Bởi con tàu đi qua đã đem theo nó một thế giới khác hẳn với cái thế giới của cái phố huyện: Một thế giới sáng rực, huyên náo, vui vẻ và sang trọng. Đó là thế giới họ hàng mơ tưởng. Bỗng chốc họ sống với thế giới ấy nghĩa là được thoát ra khỏi cuộc sống tối tăm, vắng lặng xơ xác, nhàm chán và bế tắc của cái phố huyện nghèo. Nhưng cuộc thoát li, dù chỉ bằng tưởng tượng cũng chỉ diễn ra trong chốc lát. Đêm tối và sự im lặng mênh mông lại bao bọc lấy tất cả. Nỗi buồn chán lại trở v cùng với hình nh ngọn đèn con của chị Tí leo lét giữa đêm đen. "Liên đến bên em nằm xuống. Chị gối đầu lên tay nhắm mắt lại (...). Liên thấy mình sng giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ".

Qua diễn biến tâm trạng của Liên, tác giả muốn nói gì với ngưi đọc? Lời phát biểu của Thạch Lam, như đã nói, bao giờ cũng thầm kín, dịu dàng nhưng cứ thấm thía mãi trong lòng người mà ám ảnh mãi tâm trí người đọc: y là tiếng nói đy xót thương đối vi những kiếp người nhỏ bé, cơ cực, sống quẩn quanh bế tắc, không hạnh phúc, không tương lai, những con người như bị chôn vùi trong những kiếp sống vô danh, vô nghĩa trong xã hội cũ. Trong xã hội ấy có biết bao người đã phải sống như thế: không bao giờ được biết ánh sáng và hạnh phúc.

Đến trong giấc mơ cũng không biết ước mơ gì hơn một chuyến tàu đêm vụt đi qua một phố huyện tiêu điều xơ xác của cuộc đời mình.

Đây là một khía cạnh mới của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam từ khoảng 1930 - 1945, khi xuất hiện những thế hệ nhà văn thức tỉnh về ý thức cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời. Họ hết sức nhạy cảm đối với thân phận những con người, không biết sống là vui, những kiếp sống tù mù, dật dờ trong bóng tối.

 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây