Vẻ đẹp của hình tượng “li khách” trong bài thơ: Tống biệt hành của Thâm Tâm.

Thứ năm - 28/11/2019 10:47
Đề: Vẻ đẹp của hình tượng “li khách” trong bài thơ: Tống biệt hành của Thâm Tâm.

Biệt li” là đề tài xuất hiện khá nhiều trong thơ ca nói chung và trong thơ Thâm Tâm nói riêng. Đọc thơ ông, ta thường gặp những từ như “lưu biệt”, “chia li”, “li ca”... Trong cảnh biệt li, thường có người ra đi và người đưa tiễn. Bài Tống biệt hành của Thâm Tâm không phải là một ngoại lệ. Có điều, từ đầu chí cuối bài thơ, nhân vật “li khách” - người ra đi không trực tiếp xuất hiện, không bộc lộ điều gì; tác giả dùng phép “Tả chủ hình khách”, dường như ông chỉ thể hiện những cảm xúc và suy nghĩ của người đưa tiễn. Nhưng qua đó, ta thấy hiện lên rất rõ hình ảnh cao cả của “li khách” với vẻ dẹp đầy nhân tính, đầy tinh thần nhân bản, trong cuộc chia li bi phẫn.

Bốn câu mở đầu, Thâm Tâm đặc tả nỗi lòng xao xuyến, tái tê của người đưa tiễn (ta) bằng những hình ảnh đầy gợi cảm, với một nhịp điệu chậm rãi và trĩu nặng suy tư:

Đưa người ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều trong thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?


Không gian và thời gian của cuộc tiễn đưa này thực ra rất
mơ hồ: chẳng có dòng sông, mà cũng chẳng có bóng chiểu tươi thắm, hay võ vàng. Nhà thơ nói đến những cái không có. Nhưng, sông nước, con đò, tiếng sóng, bóng chiều... là những hình ảnh đã xuất hiện không ít trong thơ Phương Đông và đã đi vào tiềm thức của bao người đọc. Bởi vậy, đoạn thơ nói cái không có, mà dường như lại khắc họa được cái có, tạo nên một trường liên tưởng thật gợi cảm: người ra đi và người đưa tiễn tựa hồ đã đến bến sông, dù không muốn rời nhau, nhưng họ đành phải chia tay vào lúc hoàng hôn sắp buông xuống... Ngoài ra, từ nhan đề của bài thơ đến giọng điệu và những hình ảnh của đoạn thơ trên phải chăng có tác dụng như một điển cố, khiến người đọc nhớ đến nhân vật Kinh Kha trong Sử kỉ của Tư Mã Thiên nói về cuộc tiễn biệt bên sông Dịch Thủy trước khi người tráng sĩ đi sang đất Tần? Điều ấy còn góp phần quan trọng tạo không khí cổ kính bi hùng, làm nền cho những hình ảnh xưa, những chữ cổ xuất hiện một cách tự nhiên, một cách nhất quán ở những đoạn thơ tiếp theo.

Nói cho cùng, cảnh vật trên đã được "nhìn" qua tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến của con người. Chính vì xao xuyến nên cho dù không đưa bạn qua sông, nhưng người đưa tiễn vẫn thấy "sóng ở trong lòng", vẫn thấy bóng hoàng hôn ngập tràn trong ánh mắt. Người đọc có lần đã bắt gặp hình ảnh "sóng tình", "sóng lòng" trong thơ của Nguyễn Du, của Nam Trân... Tuy vậy đúng như nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung đã nhận xét: cách nói của Thâm Tâm ở đây kín đáo và dư ba hơn. Thêm nữa, nhờ sự phối hợp bằng trắc (câu đầu gồm toàn thanh bằng, câu thứ hai có luôn ba thanh trắc rất gắt ("có tiếng sóng"), câu thứ tư trừ chữ "mắt" còn tất cả đều thanh bằng) nhờ cách điệp câu hỏi tu từ và cách điệp âm ("sao có" - "sao đầy"; "đưa người" - "đưa qua sông"; "trong mắt trong"), Thâm Tâm tạo ra được giọng điệu riêng, vừa thiết tha tràn đầy xúc cảm, vừa rắn rỏi hiên ngang. Giọng điệu này chính là chủ âm, chi phối toàn bộ bài thơ, góp phần tạo nên nét hấp dẫn độc đáo của Tống biệt hành.
Đoạn thơ tiếp theo:

Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng...
-Li khách! Li khách! con đường nhỏ.
Chí nhớn chưa về bàn tay không?
Thì không bao giờ nói trở lại.
Ba năm mẹ gia cũng đừng mong

giúp người đọc hiểu rõ hơn cốt cách của người ra đi. Trong cuộc tiễn biệt này, người tiễn chỉ biết có người đi. Điều này nói rõ ý nghĩa thiêng liêng của cuộc ra đi và mối quan hệ gắn bó thân thiết giữa hai người. Người tiễn hiểu rất rõ không thể lay chuyển chí hướng sắt đá của "li khách". Bởi lẽ, “li khách" không phải là kẻ bình thường mà là người lãng mạn có dáng dấp trượng phu "dứt áo ra đi", quyết "một đi không trở về", tựa hồ như "chàng tuổi trẻ" "xếp bút nghiên", hùng dũng sẵn sàng ra chiến trường lấy da ngựa bọc thây trong Chinh phụ ngâm, hay những khách chinh phụ ra đi "không vương thê nhi" xuất hiện khá nhiều trong thơ ca lãng mạn đương thời, khi các thi sĩ có khuynh hướng trở về cội nguồn, trở về quá khứ. Anh quyết ra đi không vì khúc mắc với gia đình hay vì miếng cơm manh áo, mà bởi vì không chấp nhận cuộc sống tù túng, tầm thường; ra đi để thực hiện "chí nhớn". Do đó, bất chấp mọi sự đau xót, đắng cay... Dựa trên câu chữ của bài thơ lẽ chưa hoàn toàn có đủ cơ sở để khẳng định người ra đi là "chiến sĩ cách mạng lên đường tranh đấu” (Mặc dù một nhà văn lão thành đã khẳng định: Thâm Tâm làm bài thơ này để tiễn bạn lên chiến khu Việt Bắc, năm 1941). Phải chăng người ra đi chỉ nên hiểu là một con người cao cả, mang "chí nhớn" có nghĩa là mang "tinh thần siêu việt muôn thuở của con người" theo cách diễn đạt của Hoàng Ngọc Hiến? Cách hiểu này khiến cho hình ảnh của "li khách" có tính phổ quát toàn nhân loại, (mà cũng không làm giảm mất tính khuynh- hướng cụ thể của thi phẩm).
Do thái độ quyết liệt, lạnh lùng của người ra đi với quyết tâm không trở về nếu "chí nhớn" chưa thành đã khiến cuộc tiễn đưa mang màu sắc vĩnh biệt, giống như cuộc tiễn đưa Kinh Kha vào đất Tần vậy.

- Li khách! Li khách! Con đường nhỏ.

Câu thơ vang lên như một tiếng kêu não ruột. Người tiễn hiểu thấu trắc trở, gian truân của người ra đi ("con đường nhỏ"), và cũng không giấu nổi niềm cảm phục, xót thương. Nhưng cũng như "Li khách", người đưa tiễn xót thương mà vẫn bình thản, đàng hoàng. Thì ra, người đi và người tiễn đều chung một chí hướng... Có thể còn một chút “lên gân", một chút "yêng hùng", đến nay ít nhiều đã trở thành xưa cũ, nhưng cách đây hơn nửa thế kỷ, cốt cách nói trên của người "li khách" vẫn có sức hấp dẫn lớn lao, khích lệ bao thế hệ vượt qua những níu giữ thường tình, lên đường vì nghĩa lớn, để cuộc đời mình từ chỗ nhạt nhoà vô nghĩa có cơ hội cháy sáng huy hoàng. Và nếu đặt bài thơ này vào những năm đầu sôi sục của thập kỷ 40, người đọc không thể không ít nhiều nhận thấy tình cảm của Thâm Tâm trước hiện thực đầy biến động của đất nước. Tính chất thời sự này, tác giả còn nói rõ hơn với niềm lạc quan ở một số bài thơ khác như Tráng ca hay Vọng nhân hành (Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch - Ta ghét hoài câu "nhất khứ hề").

Những câu còn lại của bài thơ vẫn là suy nghĩ, là xúc cảm của người đi tiễn sau khi chia biệt, khắc họa đậm nét một phương diện tính cách khác của người ra đi. Người tiễn biết rất rõ bên trong cái vẻ hùng dũng và khẩu khí ngang tàng "một gia gia đình một dửng dưng" kia, "li khách" còn có một nỗi buồn dai dẳng, triền miên:

Ta biết người buồn chiều hôm trước
Ta biết người buồn sáng hôm nay.

Thì ra, con tim của “li khách" thật mềm yếu, thật cô đơn!
Ra đi, anh bỏ lại mẹ già, hai chị héo mòn và đứa em ngây thơ những người đang cần đến anh như một chỗ dựa. Hai chị khóc đến cạn nước mắt "khuyên nốt em trai dòng lệ sót" nhưng vẫn không níu được bước chân em, dẫu trong lòng em cũng tràn ngập nỗi buồn đau:        

Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay     
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...

Trời tươi thắm, đứa em nhỏ e ấp trao cho anh vật kỷ niệm trước giờ li biệt, với bao niêm thương nỗi nhớ...
Như vậy, bằng cách phác họa gia cảnh éo le; bằng cách miêu tả tình cảm nhớ thương đến tội nghiệp của những người ở lại, Thâm Tâm muốn tô đậm tâm trạng quyến luyến xót xa đi đôi với chí khí sắt đá của người “li khách", ở hai khổ thơ vừa phân tích có những câu tưởng như tả thời tiết thuần túy, thiếu gắn bó với mạch thơ đang nói về tâm trạng. Nhưng thực ra, đấy là những câu thơ đột biến tạo thêm bình diện cho bài thơ và người đọc thích thú thấy những biến hóa nội tâm. Biến hóa mà không rối vì chi tiết đột biến ấy đã phát triển và đồng hóa vào bài "Mùa hạ sen nở nốt" đã dẫn đến "Một chị, hai chị cũng như sen" và vì nở nốt mới gợi tới "dòng lệ sót”, ở đoạn dưới cũng vậy "Giời chưa mùa thu" tạo ấn tượng ngây thơ "đôi mắt biếc" của đứa em.

Như trên đã nói, cuộc tiễn đưa này thật là thiêng liêng, có màu sắc vĩnh biệt. Bởi thế, đến phút chót, khi "li khách" lên đường; người tiễn - tuy đã được chuẩn bị về mặt tâm lý, tuy vẫn đồng tình với người ra đi vẫn giật mình, bàng hoàng, không muốn tin vào sự thật đau lòng. Câu thơ giống như một lời độc thoại, một câu nói thầm thể hiện tài tình tâm trạng ấy:

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!

Cuối cùng là những câu man mác buồn, giọng thơ lắng xuống, lần lượt nói về những người thân ở lại:
Mẹ thà coi như chiếc lá bay.
Chị thà coi như la hạt bụi,
Em thà, coi như hơi rượu say.
Đến đây, bài thơ rõ ràng đã thành một chỉnh thể, nếu thêm bất cứ một câu nào nữa chắc sẽ làm cho nó mất đi sự hàm súc. Nhà văn Bùi Hiển có lí khi ông khẳng định ở những câu thơ nói trên, Thâm Tâm đã có dụng ý sử dụng liên tiếp ba hình ảnh động: chiếc lá bay, hạt bụi càng bay mạnh và hơi rượu tất nhiên luôn khuyếch tán. Những hình ảnh động này có lẽ không để diễn tả cuộc sống của những con người ở nhà với cuộc đời tĩnh lặng tù túng mà phải chăng để chỉ người ra đi sắp dấn thân vào nơi sóng gió với biết bao biến động, trắc trở? Từ đó có lẽ ta nên hiểu đây chính là lời của người đưa tiễn "nói hộ" "li khách": thôi thì, mẹ hãy coi con như chiếc lá bay; hai chị hãy coi em như hạt bụi lơ lửng giữa trời; em hãy coi anh như giọt rượu bốc thành hơi! Như vậy, phải chăng từ "thà" ở đây được sử dụng như những từ "thôi đành", "thôi thì" - vốn là những tổ hợp thường dùng để mở đầu một lời kết thúc biểu thị cái điều mà người trong cuộc đành phải chấp nhận, vì không còn cách nào khác. Tiếp theo từ "thà" mạnh mẽ là những hình ảnh mềm mại, nhẹ nhàng. Ngoài ra, bằng cách đùng từ "thà" và phép điệp từ, điệp cấu trúc câu, Thâm Tâm vừa gây được ấn tượng quyết liệt thể hiện nhất quán thái độ gạt tình riêng vì "chí nhớn" vừa tạo nên sự tương phản, để thể hiện tinh tế tâm trạng giằng xé của "người ra đi đầu không ngoảnh lại" (Nguyễn Đình Thi).
Ngoài ra, trong bài thơ này, bên cạnh những câu thơ êm ái, dịu dàng kết quả của nghệ thuật phối thanh, của cách gieo vần và của lối điệp:
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay.

Là những câu thơ rất gắt tựa như câu nói của người đang uất ức, đọc lên rõ ràng có sự hụt hẫng (khác xa với phần nhiều những câu thơ uyển chuyển giàu chất âm nhạc và hội họa của phong trào Thơ mới):

Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong."

Phải chăng, bằng cách sử dụng luân phiên những câu thơ có giọng điệu đối lập nhau này, tác giả có dụng ý "tạo nên những chu kỳ âm hưởng, đáp ứng tứ thơ" khắc họa hai phương diện trong tính cách của "li khách" như đã nói ở trên?

Bằng Tống biệt hành, Thâm Tâm đã đem đến cho kho tàng thơ Việt Nam một tác phẩm độc đáo lắm "sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ", nhưng vẫn "đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại" (Hoài Thanh) với những hình ảnh, thi tứ, giọng điệu... thật mới mẻ, hấp dẫn. Bài thơ thề hiện một cách tài tình vẻ đẹp của "li khách" - "của con người cao cả trong toàn bộ sự biểu hiện chân thật của nhân tính, đầy tinh thần nhân đạo’’

 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây