Sau khi ông Võ Đình Cường công bố “Mấy tư liệu chính xác” về “Mối tình” giữa Hàn Mặc Tử và Hoàng Thị Kim Cúc (Tập văn Phật Đản, P.L. 2536 của Ban Văn hóa Trung ương G.H.P.G.V.N số 23-5-1992) thì mọi ngườỉ đều biết mối tình Hàn Mặc Tử - Hoàng Thị Kim Cúc chỉ là mối tình thuần túy đơn phương, nghĩa là chỉ có Hàn Mặc Tử yêu Hoàng Thị Kim Cúc chứ Hoàng Thị Kim Cúc không hề cố tình yêu đối với Hàn Mặc Tử. (Xem thư của Hoàng Thị Kim Cúc gửi nhà thơ Quách Tấn đề ngày 15 - 4 - 1971). Điều này hoàn toàn bác bỏ những lời đồn đại về việc cô Cúc gửi ảnh của mình (mặc áo trắng nữ sinh Đồng Khánh, đứng bên khóm trúc) cho Hàn Mặc Tử.
Hoàng Thị Kim Cúc chỉ có một cử chỉ duy nhất gọi là tỏ chút tình cảm đối với Hàn Mặc Tử như thế này thôi: Khi nhà thơ đã lâm bệnh nặng, một người bạn thân của Hàn Mặc Tử đồng thời là em thúc bá của Hoàng Thị Kim Cúc có khuyên Hoàng Thị Kim Cúc “hãy an ủi một tâm hồn đau khổ”, “Thay vì viết thư thăm, tôi (Hoàng Thị Kim Cúc) gởi một bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái carte postale. Trong ảnh có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có máy khóm tre, có cả ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống mặt nước, với lời thăm hỏi sức khỏe Từ, viết sau tấm ảnh mà không kí tên rồi nhờ Ngâm (tên người em thúc bá nói trên của Hoàng Thị Kim Cúc - NĐM) trao lại.
Sau một thời gian tôi nhận bài thơ “ở đây thôn Vĩ Dạ”- và một bài khác nữa cũng do Ngâm gởi về (bài này các sách báo đều đăng cả rồi). Không ngờ sức tưởng tượng của thi nhân quả khác thường đến biến bức ảnh phong cảnh đó thành bức ảnh bến Vĩ Dạ lúc hừng đông hay một đêm trăng (thư của Hàn Mặc Tử gửi Hoàng Thị Kim Cúc kèm theo bài thơ “ở đây thôn Vĩ Dạ” có câu: Có nhận được bức ảnh Bến Vĩ Dạ lúc hừng đông hay là một đêm trăng?”).
Căn cứ vào tài liệu trên, ta có thể suy đoán rằng, bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được khởi hứng từ bức bưu ảnh do Hoàng Thị Kim Cúc tặng cho thi nhân. Và Hàn Mặc Tử đã ngắm nhìn bức bưu ảnh đó mà tưởng tượng ra bức tranh bến Vĩ Dạ trong bài thơ nổi tiếng của mình. Giá như bức bưu ảnh ấy còn lại đến ngày nay thì thú vị biết bao. Cảnh trong đó không biết như thế nào mà nhà thơ lại nhận xét một cách phân vân: “Bến Vĩ Dạ lúc hừng đông hay là một đêm trăng”.
Và bài thơ ra đời, khổ đầu là “Vĩ Dạ hừng đông” “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” và khổ sau là “Vĩ Dạ đêm trăng”, “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay?”. Tình yêu và trí tưởng tượng đã giúp Hàn Mặc Tử nhìn bức bưu ảnh chụp cảnh sông nước làng quê nào đấy thành bến Vĩ Dạ. Như vậy quá trình làm thơ chắc hẳn là quá trình nhà thơ đối thoại âm thầm với tấm ảnh, tự đặt cho mình những câu hỏi nảy ra từ sự ngắm nhìn say mê phong cảnh nơi “quê hương” của cô gái mà thi sĩ bấy lâu vẫn thầm yêu trộm nhớ: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc? Thuyền ai đậu bến sông trăng đó? Ai biết tình ai có đậm đà? Bên cạnh đó là những hình ảnh mơ hồ, không xác định, tự nó cũng là những câu hỏi không lời đáp, đại loại như những hình ảnh: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” hay “Mơ khách đường xa, khách đường xa”.
Vậy tính phiếm chỉ phân vân, tính hư ảo, mơ hồ, là đặc điểm độc đáo của bài thơ Đây thôn vĩ Dạ rất phù hợp với mối tình đơn phương của thi sĩ. Phân tích bài thơ, không nên suy diễn cảnh trong đó thành ra những hình ảnh xác định rõ ràng, cụ thể. Làm như thế, e rằng sẽ xua đi mất chất lãng mạn và cùng với nó, hồn thơ đích thực của tác phẩm.
Đây thôn Vĩ Dạ là một thi phẩm toàn bích, nghĩa là câu nào, chữ nào cũng hay, hay từ gốc đến ngọn.
Tuy nhiên, không phải câu nào, hình ảnh nào cũng độc đáo, nghĩa là những sáng tạo mới lạ và riêng của Hàn Mặc Tử.
Theo tôi, độc đáo hơn cả là những hình ảnh sau đây:
(...) Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
(...) Gió theo lối gió mây đường mây .
Dòng nước buồn thiu hoa bắp bay
(...) Mơ khách đường xa, khách đường xa .
Áo em trắng quá nhìn không ra.
Nhưng những câu đó đều là những câu khó hiểu nhất của bài thơ. Vì đó là những hình ảnh hư ảo, mơ hồ nhất. Phải chăng, tác giả quan niệm như thế là ''màu sắc trừu tượng” “ thứ gì nửa thực, nửa hư, nghe, thấy, biết mà không làm chủ được”, nhưng đó mới là “cái đẹp của thơ” (Tựa tập Tinh huyết của Bích Khê)
Theo tôi, cái độc đáo và đẹp của câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” là ở nghệ thuật cách điệu hóa - Không nên tìm ở đây hình ảnh tả thực.
“Gió theo lối gió mây đường mây. Dòng nước buồn thiu hoa bắp bay” là nhịp điệu, là không khí, là nỗi buồn, là linh hồn dịu dịu của sông nước Huế.
Còn “Áo em trắng quá nhìn không ra” có lẽ là hình ảnh cô gái Huế, màu áo trắng trong, lẫn vào “sương khói mờ nhân ảnh” đầy hư ảo của Huế và của trí tưởng tượng của nhà thơ.
Mối tình của Hàn Mặc Tử với Hoàng Thị Kim Cúc có vai trò gì ở bài thơ này không? Nhất định là có. Đó chính là nguồn cảm hứng của tác phẩm. Nhưng không nên phân tích bài thơ như là sự diễn tả cái lôgic chặt chẽ và cụ thể của mối tình Hàn Mặc Tử - Hoàng Thị Kim Cúc. Mối tình đơn phương và hư ảo ấy có lẽ chỉ đem đến cho cảnh Vĩ Dạ thêm chất mộng mơ thi vị rất lý tưởng và một nỗi buồn man mác...
Có người đặc biệt ca ngợi hình ảnh này ở khổ thơ thứ hai “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay”. Đó quả là một hình ảnh thơ mộng và đẹp. Nhưng độc đáo thì không phải. “Thuyền gối bãi”, “Thuyền đậu bến”, “Thuyền chở trăng”, những hình ảnh đó thực ra là những hình ảnh có tính ước lệ rất phổ biến trong thơ ca kim cổ (thơ Đỗ Mục, Trương Kế, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Quách Tấn, Yến Lan, Thúc Tề v.v...). .
Bài thơ mở đầu bằng câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Nhìn bức bưu ảnh, Hàn Mặc Tử đã tưởng tượng ra câu hỏi ấy của Hoàng Thị Kim Cúc (chứ Hoàng Thị Kim Cúc có mời mọc gì đâu).
Và bài thơ kết thúc cũng bằng một câu hỏi: “Ai biết tình ai có đậm đà?”
Câu hỏi cuối bài thơ có lẽ là lời đáp của câu hỏi mở đầu tác phẩm: “Ai biết tình ai có đậm đà mà về thăm thôn Vĩ”. Câu trả lời cũng chỉ nên mơ hồ thế thôi (“ai biết tình ai”), vì người ta có hỏi mình đâu và có chắc gì yêu mình đâu mà trả lời cụ thể. Ở đây nói năng cụ thể sẽ là sỗ sàng và vô duyên.
Tóm lại mơ hồ, phiếm chỉ là đặc trưng chung của bài thơ, là vẻ đẹp mộng mơ của Huế, là đặc trưng mối tình ngậm ngùi hư ảo của Hàn Mặc Tử đối với Hoàng Thị Kim Cúc.