Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ đến cái gọi là "chủ nghĩa xê dịch". Thích "xê dịch" nên hay viết về những cái gì liên quan đến "xê dịch" như đường sá, sông nước, xe cộ, tàu thuyền, những người có máu giang hồ, du lịch, những người lái xe lái đò... Ông cũng thích những cái gì gây cảm giác mãnh liệt. Thực ra, chủ nghĩa xê dịch, nói như Nguyễn Tuân, cũng là một cách để luôn luôn "thay thực đơn cho giác quan", vì thế ông thích tả những cái gì hoặc dữ dội, hoặc mãnh liệt, hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh, tuyệt vời. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, tả gió, tả bão, tả thác nước dữ dội... Nguyễn Tuân cũng là người yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cây cỏ trên đất nước mình.
Đề tài bài kí Người lái dò sông Đà đã đáp ứng đầy đủ những yêu cầu trên của phong cách Nguyễn Tuân.
Bài kí có hai nhân vật: con sông Đà và người lái đò sông Đà.
Sông Đà quả là một con sông vừa đẹp tuyệt vời vừa cực kì hung dữ. Tác giả gọi là "hung bạo và trữ tình": hung bạo là ở những đoạn có thác dữ, có những quãng hẹp kẹp giữa hai thành vách núi cao, hay những hút nước khủng khiếp chết người... ở đây, sông Đà có "diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một" của con người: hung hãn, nham hiểm, xảo quyệt, độc ác... Trữ tình là ở những đoạn xuôi chèo êm ả. Dòng sông như một "áng tóc trữ tình", nước sông thay đổi màu sắc theo mùa rất đẹp, phong cảnh nên thơ, những con thuyền đuôi én độc đáo... Về phương diện này, sông Đà trở thành nỗi nhớ và người bạn thân thiết của con người, một "cố nhân" (tức người bạn cũ).
Người lái đò sông Đà thì được tập trung mô tả trong cuộc vật lộn với thác nước sông Đà. Một quang cảnh thật dữ dội. Đấy là những cảnh tượng kích thích mạnh giác quan nghệ sĩ của Nguyễn Tuân. Cảm hứng được khơi dậy, nhà văn bèn tung ra cả một kho ngôn từ phong phú và đầy giá trị tạo hình của mình để diễn tả cho được mọi sắc thái, mọi hình thù, mọi bộ mặt, mọi âm thanh, mọi tình huống phức tạp, oái oăm nhất của trận chiến đấu giữa ông lái đò trí dũng tuyệt vời và thác nước sông Đà hung hãn, đầy mưu mô xảo quyệt. Chỉ nói riêng về âm thanh của con thác đã thấy rõ ngôn từ phong phú của Nguyễn Tuân: tiếng nước thác lúc như "oán trách" lúc như "van xin" lúc như "khiêu khích", "giọng gằn mà chế nhạo", rồi "rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa"... Còn hình ảnh ông lái đò thì: cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo sệch đi, "cưỡi lên thác”, "nắm chặt lấy được cái bờm sóng", "ghì cương", "phóng nhanh", "lái miết một đường chèo", "rảo bơi chèo lên", “đè sấn lên mà chặt đôi” con thác...
Một nét phong cách khác của Nguyễn Tuân là thường quan sát, khám phá sự vật ở phương diện mĩ thuật và con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ.
Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà quả là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo". Màu sắc sông Đà thì mùa xuân là "dòng xanh ngọc bích", mùa thu thì "lừ lừ chín đỏ” có lúc lại loé lên cái "màu nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt hạ Dương Châu"...
Còn ông lái đò sông Đà thì trở thành một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác ghềnh, đã nắm chắc được "binh pháp của thần sông thần đá", thuộc lòng các luồng sinh luồng tử của các con thác dữ nên chủ động trong mọi tình huống, có thể lái con thuyền vun vút qua hàng trăm ghềnh, đá ngổn ngang, hiểm hóc... Nguyễn Tuân gọi thế là "tay lái ra hoa".
Nguyễn Tuân còn là một cây bút rất mực tài hoa, lịch lâm. Mô tả một đối tượng nào đấy, ông không chỉ vận dụng những hiểu biết về nghệ thuật văn chương mà còn kết hợp thích đáng những lợi thế của kĩ thuật thể hiện của nhiều ngành nghệ thuật khác như: hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc, sân khấu, vũ đạo, điện ảnh. Bài kí Người lái đò sông Đà cũng là một bằng chứng rất tiêu biểu của nét phong cách trên.
Chẳng hạn ông tả một cái hút khủng khiếp của sông Đà bằng kĩ thuật phim ảnh: "Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà, từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cái cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược (...) lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh, ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem".
Ở bài ký sông Đà này, Nguyễn Tuân còn vận dụng cả những nghệ thuật, kĩ thuật rất ít khi thấy được vận dụng trong văn chương: nghệ thuật quân sự và võ thuật. Nào là cửa sinh cửa tử, đánh khuýp vu hồi, đánh du kích, phục kích, đánh giáp lá cà, nào là đòn tỉa, đòn âm, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng...
Ngoài ra ông còn vận dụng những tri thức của nhiều bộ môn khoa học trong tác phẩm của mình - một vốn văn hoá phong phú lịch lãm hiếm thấy - làm cho những bài kí của ông có giá trị văn hoá cao. Bài kí Người lái dò sông Đà nhờ thế đã giúp người đọc hiểu được rất nhiều điều bổ ích về lịch sử, địa lý sông Đà, về lịch sử cách mạng xung quanh con sông này, về địa hình địa thế của nó, về những con thác đủ loại, về các tài nguyên đất nước vùng sông Đà, về những bài thơ của Nguyễn Quang Bích, của Tản Đà..., về con sông ở miền Tây Tổ quốc này.
Phong cách Nguyễn Tuân nói chung rất độc đáo và phong phú, nhưng ở mỗi tác phẩm lại phô bày những khía cạnh khác nhau, ở bài kí Người lái đò sông Đà người ta thấy phong cách nghệ thuật của ông thể hiện rõ nhất ở sự nhọn sắc của giác quan nghệ sĩ đi đôi với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, gốc cạnh đủ sức diễn tả những cảm giác kia, ở lối văn rất mực tài hoa và lịch lãm thể hiện ở cách nhìn sự vật, con người khiến cho bài kí vừa có giá trị văn học vao, vừa có giá trị thông tin văn hoá phong phú.