Phân tích nhân vật Thị trong truyện Vợ Nhặt - Bài làm 1
Người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của tác giả Kim Lân dù không phải là nhân vật trung tâm nhưng lại đứng ở một vị trí vô cùng quan trọng trong toàn bộ tác phẩm. Có thể nói với nhân vật này, thì giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm mới được trở nên hoàn chỉnh hơn.
Nếu như nhân vật Tràng vẫn còn có một người mẹ già, một xóm ngụ cư, một công việc để kiếm sống ngày qua ngày, chờ đến ngày xua tan được cái đói, cái khổ. Thì người vợ nhặt toàn bộ “trắng tay”. Cô tha phương cầu thực, trên người của cô giá trị nhất chỉ còn lại có bộ quần áo của mình. Hình dáng của một người đàn bà hiện lên hết sức thảm thương: “cái ngực lép nhô lên” “áo quần tả tơi như tổ đỉa” “thị gầy sọp” “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy có hai con mắt” một đôi mắt hiện ra thiếu sức sống nghị lực“trũng hoáy” lại. Trong cái không khí u ám và nặng nề, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” “người chết thì trông như ngả rạ” “người sống xanh xám dật dờ như những bóng ma”. Và dường như cánh cửa của thần chết cũng đang dần dần mở ra với thị.
Không chỉ bị biến đổi về ngoại hình bên ngoài, mà nhân cách và tính nết của thị cũng có những thay đổi đáng phải lo ngại theo một chiều hướng tiêu cực. Vốn trước kia là một người phụ nữ, ai có thể ngờ rằng người con gái đó vì cái miếng ăn mà dám đánh đổi cả danh dự của chính bản thân mình. Lần đầu tiên,khi nghe thấy câu dao của Tràng thị lấp tực chạy tới, híp mắt và cười tình. Nhưng sợ trơ trẽn còn được đẩy lên một nấc nữa khi lần sau gặp lại Tràng, thị “sưng sỉa” chạy thẳng đến chỗ Tràng mà mắng mỏi.
Rồi đến khi được Tràng thiết đãi bánh đúng, bao nhiêu cái sự dịu dàng, e thẹn đã biến đi đâu mất cả, thi chỉ cắm đầu vào ăn bốn bát bánh đúc, không hề ngẩng đầu và cũng không hề trò chuyện. Toàn bộ cái nữ tính, nhân cách của thị đã bị phá hủy vì miếng ăn. Và còn lạ lùng kỳ lạ hơn nữa, khi Tràng chỉ nói trêu đùa “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” nào ngờ thị theo về thật. Cuộc hôn nhân là cả một đời người, vậy mà thị quyết định thật chóng vánh. Cái đói có thể hủy hoại cái nhân cách, hủy hoại thiên tính nữ của một con người khủng khiếp đến như vậy sao?
Chỉ vì cái đói mà thi sẵn sàng đem trao thân mình để gửi phận cho một người mà mình chỉ mới được gặp gỡ có hai lần. Thậm chí còn trò chuyện cũng chỉ mới tính ở trên đầu ngón tay. Lòng ham sống đã khiến cho thị đi đến một quyết định vô cùng liều lĩnh, khi có được một cơ hội sống, thị cố gắng bám víu và dựa vào nó bằng bất kể cái giá nào, gạt bỏ mọi nghi lễ, gạt bỏ cái e dè của một người con gái. Hành động ấy cũng cho thấy một tinh thần thật khỏe mạnh,một lòng yêu cuộc sống và ham sống của một người phụ nữ nông dân này. Đồng thời cũng là một lời lên án gay gắt nhất về sự độc ác và tàn nhẫn của bọn đế quốc, phát xít đã đầy con người đến cái bước đường cùng này.
Dù viết về một người phụ nữ đánh mất những nét đẹp của bản thân mình, nhưng nhà văn Kim Lân không hề khinh thường, dè bỉu mà là một tấm lòng đầy cảm thông, trân trọng. Sau cái sự trơ trẽn ấy ta vẫn thấy một người phụ nữ vẫn dịu dàng, e ấp và đảm đang. Trên đường trở về, cắp cái thúng con, thị khép nép bên cạnh Tràng, ngại ngùng khi bị những đứa trẻ trêu chọc. Và đặc biệt trong giờ phút người con dâu mới được gặp mẹ chồng nàng vô cùng lo lắng và sợ hãi.
Sự thay đổi đó, cũng khiến cho một chàng trai ngờ nghệch như Tràng cũng có thể nhận ra: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn gì vẻ chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài phố”. Đồng thời, thị cũng hết sức chăm chỉ, tháo vát. Dưới đôi bàn tay của một người phụ nữ đảm đang nhà cửa đã được dọn dẹp thật tươm tất và sạch sẽ, ngôi nhà lại có thêm một sức sống mãnh liệt mới.
Và một điều đặc biệt là không phải Tràng hay người mẹ của Tràng mà chính là cô vợ nhặt là một người đầu tiên nói về lá cờ Việt Minh, về kho thóc Nhật. Đằng sau một người phụ nữ tưởng như đã bị phá hủy một cách hoàn toàn về nhân tính ấy, lại là một con người có sức sống tiềm tàng mãnh liệt đến như vậy. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Kim Lân lại giao trọng trách nói những vấn đề quan trọng, về một tương lai tốt đẹp cho nhân vật vợ nhặt. Bởi không ai khác, đây chính là nhân vật có một sức sống mạnh mẽ nhất trong tác phẩm, cũng chính là một nhân vật có số phận bi thương nhất. Bởi lẽ vậy để cho nhân vật là người được phát ngôn về tương lai, về hy vọng cũng là một trong những cách thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả Kim Lân.
Nhân vật vợ nhặt được đặt vào trong một tình huống truyện rất đặc biệt, trong tận cùng của cái đói và cận kề với cái chết, nhân vật đã bộc lộ ra những tính cách, những ước mơ khao khát được sống mãnh liệt của mình. Không chỉ những vậy, nhân vật còn mang tính chất kết nối nhau, tạo nên một sự liền mạch giữa các sự kiện trong tác phẩm. Với nhân vật người vợ nhặt, không chỉ là sự sáng tạo thành công của nhà văn Kim Lân mà nó còn cho thấy giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc nhất của Kim Lân.
Phân tích nhân vật Thị trong truyện Vợ Nhặt - Bài làm 2
Trong kí ức của mỗi người Việt Nam, nạn đói năm Ất Dậu vẫn là một cơn ác mộng khó quên. Cũng từ đó, miếng cơm manh áo từ nỗi đau hiện thực trở thành đề tài sáng tác của những nhà văn. Thân phận những con người trở nên tầm thường, đến cả chuyện hạnh phúc lứa đôi cũng là chuyện rẻ rúng. Tất cả những điều đó đều được ghi lại bằng ngòi bút của Kim Lân qua nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên.
Trước tiên, ta thấy Thị là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Là nhân vật vô danh, người vợ nhặt là đại diện chung của số phận của những người phụ nữ không may sinh ra trong hoàn cảnh bất hạnh. Người phụ nữ ấy không tên, không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Từ đầu đến cuối tác phẩm, Kim Lân chỉ ban tặng cho nhân vật này những cách gọi tên rất chung chung như “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Thị xuất hiện một cách bạo dạn, đáng thương trong hai lần gặp Tràng. Thị “ngồi vêu ra” lẫn trong đám con gái ngồi chờ nhặt hạt thóc rơi. Thị ton ton chạy lại đẩy xe tiếp Tràng với hi vọng được “kiếm ăn” nhưng thất bại. Từ sự cong cớn, liếc mắt cười tít, Thị chuyển sang vẻ tiều tụy, hốc hác vì cái đói trong lần gặp thứ hai “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Tràng dường như không thể nhận ra thị. Cùng với sự thay đổi về hình thức, cái đói đã xóa đi cái hồn nhiên hóm hỉnh của thị khi gặp Tràng, chị biến thành một người phụ nữ “đon đả”, táo bạo và liều lĩnh. Thị đói đến mức cắm đầu ăn bốn bát bánh đúc liền “Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Kim Lân đã khắc họa hình ảnh một người phụ nữ thật đáng thương! Từ ngoại hình đến cử chỉ, hành động, thị đều hiện lên trên trang giấy với sự khắc khổ, nhếch nhác, tội nghiệp. Cái đói chẳng những tàn hại dung nhan mà còn tước đoạt cả tính cách và nhân phẩm của thị. Vì đói mà trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “sưng sỉa”.. Cái đói khiến thị quên đi việc giữ gìn ý tứ và lòng tự trọng của con gái. Càng tội nghiệp hơn khi cái đói buộc thị phải trở thành “người vợ nhặt” sau một câu nói nửa đùa nửa thật “này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cũng về”. Thế là xong một câu chuyện tình, một cuộc hôn nhân! Sự lãng mạn chỉ là điều không tưởng. Đang trên bờ vực của cái chết, thị còn lựa chọn nào hơn? Trong suy nghĩ của thị, Tràng như một cái phao cứu sinh, cứu thị ra khỏi sự đói khát của thế kỉ. Cái đói đã làm cho thị và biết bao người dân lúc bấy giờ rẻ rúng như vậy. Có ai ngờ được hạnh phúc lứa đôi được xây đắp bằng bốn bát bánh đúc và một lời nói bông đùa? Nhưng trong hoàn cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí ẩm lên mùi ẩm thối của rác tưởi và mùi gây của xác người” thì hạnh phúc tầm thường, đơn sơ kia cũng đáng quý biết bao.
Bên cạnh đó, Thị còn là người phụ nữ với lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo không Tràng là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Khát vọng sống mãnh liệt thúc giục thị phải tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh thương tâm. Niềm lạc quan lạc sống ấy chính là một phẩm chất đáng quý mà nói như Kim Lân: “Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý thức khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”. Thị đến với Tràng trước hết làm tìm một chỗ nương tựa trong đói kém. Bởi thế, thị không thể giấu nổi sự thất vọng thầm kín trước gia cảnh thảm thương của gia đình Tràng “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Trên đường về nhà chồng, trước những lời bàn tán xôn xao, những chỉ trỏ chòng ghẹo của người dân ngụ cư, người vợ nhặt cảm thấy xấu hổ, ngượng nghịu đến mức “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Về đến nhà chồng, thị thất vọng trước cảnh nhà quá tồi tàn, khổ sở nhưng cố nén lại tất cả vào trong suy nghĩ. Trong tiếng thở dài ấy không chỉ có nỗi thất vọng mà còn xen cả lo toan, ý thức trách nhiệm, bổn phận của mình trong việc xây dựng cuộc sống gia đình về sau..
Nhân vật Thị còn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi những phẩm chất tốt đẹp. Vào trong nhà, thị e thẹn “ngồi mớm” vào mép giường và chào u một cách lúng túng. Khác với vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn ban đầu, thị bây giờ là nàng dâu mới với đầy đủ sự ý tứ, cung kính, mực thước. Chính tình cảm yêu thương, sự đùm bọc sẻ chia trong cơn hoạn nạn đã khiến con người sống tốt hơn, ý thức sâu sắc hơn về bổ phận và trách nhiệm của mình. Sáng hôm sau, thị dậy sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp trong ngoài. Đến cả chính Tràng cũng phải ngạc nhiên: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới bữa cơm thảm hại ngày đói, thị vẫn vui vẻ bằng lòng với bát cháo cám đắng chát. Thị là một cơn gió mới trong gia đình. Hiện thực khắc nghiệt, xót xa “người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại” nhưng thị vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Hoàn cảnh đấy, ai cũng phải cất lại nỗi tủi hờn bên trong để vui vầy cũng hạnh phúc bình dị, đơn sơ. Sự lạc quan được gói trọn trong lời của bà cụ Tứ: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Bên cạnh đó, người vợ nhặt còn là người phụ nữ thông minh hiểu biết. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị tỏ ra ngạc nhiên hỏi mẹ chồng “Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?” Câu nói của thị làm Tràng ngờ ngợ vỡ ra trong suy nghĩ “hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật”, “trong ý nghĩ của hắn vụt ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm éo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”…
Điểm nhấn nghệ thuật ở người vợ nhặt chính là nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn Kim Lân. Tác giả đã đặt nhân vật trong tình huống “lạ”, “éo le”; diễn biến tâm lí được khắc họa qua các sự kiện với sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế qua hệ thống ngôn ngữ giản dị, mộc mạc. Như vậy, nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân là một nhân vật tiêu biểu cho hình tượng người phụ nữ lao động nghèo khổ, đáng thương. Nhưng dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng, thị vẫn ngời sáng bởi lòng ham sống, những phẩm chất tốt đẹp và niềm tin tưởng ở tương lai.
Phân tích nhân vật Thị trong truyện Vợ Nhặt - Bài làm 3
Trong nền văn học hiện thực của Việt Nam trong giai đoạn những năm trước cách mạng và những năm đầu sau cách mạng tháng tám,nhà văn Kim Lân là một trong những cái tên nổi bật nhất khi viết về đề tài của người nông dân trong xã hội thời cũ. Dù có số lượng các tác phẩm là hạn chế, thế nhưng hầu như tác phẩm nào của tác giả Kim Lân cũng hay và mang lại nhiều giá trị cho người đọc, là một cơ sở để xếp nhà văn vào một trong 9 những tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Điểm sáng và đáng được lưu ý nhất trong các tác phẩm của nhà văn Kim Lân ấy chủ yếu là mang trong mình một giọng văn nhẹ nhàng, tình cảm, các tác phẩm của ông chủ yếu tập trung để làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của con người, hướng đến một lối thoát nhân văn cho những kiếp người phải sống cảnh lầm than khốn khổ, chứ không phải là tập trung tái hiện cái hiện thực khắc nghiệt đau thương của xã hội cũ.Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong số các tác phẩm nổi tiếng và xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân, đặt trong một bối cảnh đất nước trong những ngày đau thương nhất - nạn đói năm 1945. Nhân vật vợ của Tràng là một trong số những kiếp người phải chịu khốn khổ đến tột cùng, cái đói đã khiến cho thị tàn tạ, xơ xác, trở nên xấu xí trong mắt của người đời, thế nhưng sau khi tìm hiểu sâu về nhân vật này thì ta mới phát hiện ra ở thị cũng có những phẩm chất tốt đẹp và thật đáng quý đến nhường nào.
Nhân vật thị là một người đàn bà không có tên, không có tuổi, không quê quán, gốc gác, không gia đình, và cũng chẳng ai biết được thị từ đâu đến, cả một cuộc đời trước khi gặp được Tràng của thị dường như đó chẳng có gì phải để nhắc người ta nhớ đến. Cái hoàn cảnh khốn khổ đó của thị, chính là cái hoàn cảnh chung của rất nhiều người nông dân trong nạn đói kinh hoàng năm 1945, tại cái thời điểm mà mỗi kiếp người bị rẻ rúng như những cọng rơm cọng rác nhặt ở ngoài đường. Không chỉ nghèo khó, không lai lịch, tên tuổi mà trên người của thị lại còn mang đủ những nỗi bất hạnh của một người đàn bà, thị là một người không có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm thêm cho cái nhan sắc xấu xí ấy thêm phần thảm hại hơn, người ta bắt gặp được thị trong một bộ ““áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm thì “gầy xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, rồi “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”.Chỉ bấy nhiêu những nét vẽ ấy cũng đủ để cho thấy rằng bản thân của thị cũng đang bước dần trên những bước cuối đến cái nghĩa địa của một cuộc đời như nhiều cái số phận khốn khổ khác trong nạn đói kinh hoàng năm 1945.
Dù người phụ nữ ấy đã không có một ngoại hình hấp dẫn, nhưng cái cách nói năng, hành động của thị cũng khiến cho người ta cảm thấy phản cảm vô cùng. Khi nghe thấy anh Tràng hò có mấy câu đùa cho khuây khỏa, nghe thấy có cái ăn thì thị đã cong cớn, mỉa mai, rồi cũng chẳng hề biết ngại ngần là gì mà thị sấn tới tranh đẩy xe với Tràng, “liếc mắt, cười tít”. Tuy nhiên sau cái bữa đẩy xe phụ, mà không có được cái ăn, khi gặp lại Tràng thì thị đã sưng sỉa, chỉ thẳng vào mặt của Tràng mà mắng “Điêu, người thế mà điêu”. Khi cô nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu dáng đon đả, đổi hẳn cả thái độ. Và rồi thị cúi đầu ăn hết một chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì sau đó ăn xong thì lấy đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà”. Quả thực trước giờ chưa bao giờ từng thấy người đàn bà nào trước mặt của một người đàn ông lạ mới gặp có hai lần mà lại có thể thoải mái đến thế, thậm chí đến mức cả vô duyên, trơ trẽn,những hành động táo bạo và bất chấp chỉ vì cái miếng ăn như thị. Nạn đói đó nó đã khiến cho tâm hồn và nhân cách của con người trở nên rẻ rúng, thiểu não quá. Nhưng cho đến khi xét kỹ lại, nhìn lại những hành động đó của nhân vật thị một cách nhân văn hơn thì ta mới nhận ra được rằng, thực tế khi đang đứng trước cái chết, cái đói, và đứng trước cái viễn cảnh hàng triệu người đang chết như ngả rạ trước mặt thì khó có ai có thể bình tĩnh và cư xử một cách được bình thường nổi. Ai mà chẳng sợ chết, thị cũng sợ chết, và ngay lúc này đây khi gặp được Tràng khi phải đối diện với lưỡi hái trước tử thần mà lại bắt được cọng rơm cứu mạng, thì những niềm khao khát được sống sót của thị trở nên bùng cháy. Thị đã bất chấp tất cả để mới có được miếng ăn, vứt bỏ hết cả liêm sỉ, nhân cách của mình chỉ vì được sống, quyết định không buông bỏ cuộc sống dễ dàng. Không chỉ có được khao khát sống mãnh liệt mà bản thân của thị còn có những khao khát có được cuộc sống hạnh phúc, được có một mái ấm gia đình, một tấm chồng để nương tựa những lúc khó khăn như những lúc này. Chỉ với một câu nói nửa đùa và nửa thật “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, mà thị đã không hề ngần ngại nhận lời, trở thành một người vợ mặt dày, mày dạn theo không Tràng. Đối với thị ngay lúc này cỗ bàn, đám rước đám hỏi chẳng còn quan trọng gì, miễn sao chỉ cần có được một nơi trú chân, một gia đình và qua được cái đói đó thì mọi chuyện đều có thể cho qua đi hết. Thế là thị đã quyết định nên vợ nên chồng với Tràng bằng những niềm tin hy vọng mới mẻ, thị mong rằng cái người trước mắt của mình đã có thể sảng khoái mà đãi mình hẳn 4 bát bánh đúc, thì hẳn sau chung sống chắc hẳn hắn cũng sẽ tử tế với mình, được nhiêu đó thôi là cũng đủ để mãn nguyện rồi. Như vậy bên cạnh cái ý nghĩa nhân văn trong sự kiện thị theo không Tràng, thì nhà văn Kim Lân cũng đã phản ánh một hiện thực vô cùng đau xót và xót xa của xã hội lúc bấy giờ: giá trị của con người dường như đã xuống đến mức âm, thậm chí còn không bằng cả một cọng rơm cọng rác, để đến nỗi những người trong làng trông thấy Tràng dẫn người vợ về họ còn cho rằng đó là “của nợ”.
Những tưởng rằng thị trời sinh ra đã đanh đá, chỏng lỏn và sưng sỉa nhưng đến khi nhìn thấy dáng vẻ của thị sau khi làm một người vợ, Tràng ta mới nhận ra được rằng, sự vô duyên, ghê gớm của thị tất cả chỉ là một cái vỏ bọc bên ngoài để bảo vệ thị trong nạn đói mà thôi, thực tế rằng thị cũng là một người phụ nữ giống như bao người phụ nữ khác cũng có nhiều phẩm chất tốt đẹp được giấu kín sau cái dáng vẻ tàn tạ, khốn khổ kia. Trên đường trở về nhà làm vợ Tràng, thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu thì cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che nửa đi cái khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với một dáng vẻ của một người cô dâu khi bước về nhà chồng. Gặp phải cái cảnh trêu chọc của đám trẻ con,những ánh nhìn ái ngại của những người dân trong làng, thị cảm thấy rất khó chịu, tủi cho số phận của mình là một người vợ nhặt theo không, thành thử ra thị càng trở nên bối rối hơn “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả chân kia”, trông đến thương vô cùng. Khi về đến nhà Tràng khung cảnh trong nhà xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm bợ, không có bàn tay của người đàn bà săn sóc, không khỏi khiến cho thị thất vọng, buồn lòng, bởi có lẽ rằng thị đang hy vọng về một ngôi nhà tươm tất, đủ đầy hơn, để thị có được một cuộc đời bớt khổ sở. Nhưng cái cảnh trước mắt còn kém quá xa so với những gì thị đã tưởng tượng, tuy nhiên thị lại không vì thất vọng mà phàn nàn với Tràng, thị bỗng nhiên trở thành một người đàn bà biết nhẫn nhịn và tế nhị “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, rồi nén một tiếng thở dài”. Thị đã cất hết nỗi thất vọng và cái buồn bã của mình vào trong lòng, không để Tràng biết,luôn quyết tâm cùng người chồng mới cưới xây dựng lên một gia đình đầm ấm hạnh phúc,cố gắng phấn đấu vượt qua cái nghèo và cái khó. Khi ra mắt người mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, khi tưởng cụ không nghe thấy thì thị đã chào thêm một lần nữa, cái dáng điệu khép nép, ngại ngùng, thực sự thị đã lột xác được bản thân mình và trở thành một nàng dâu giống như bao người con dâu khác hiền lành, e ấp, khác hẳn với dáng bộ của một người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.
Sau một đêm tân hôn, thị đã lột xác và trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo vát,tự mình gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp lại nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân hong, gánh nước, quét sân, gom rác để đem vứt, rồi dọn cơm,... Không khí của gia đình đã trở nên hòa hợp vui vẻ và có nhiều niềm hy vọng mới mẻ hơn nó giống như một tia hy vọng đang được cánh cửa của tương lai mở ra. Đặc biệt khi phải đối diện với nồi cháo cám đắng ghét, nghẹn bứ nơi cổ họng của bà cụ Tứ, “đôi mắt thị tối lại” nhưng người con dâu ấy vẫn “điềm nhiên và vào miệng”, không hề nói năng hay tỏ ra thái độ gì. Cách cư xử tế nhị ấy của thị, đã bộc lộ được một nét tính cách khác của thị ấy là sự thấu hiểu và cảm thông cho người mẹ già thương con, thị hiểu rằng vì nghèo quá nên không có gì để đãi con nhân ngày tân hôn thế nên bà cụ tội nghiệp mới cố kiếm một nồi cháo cám cho con dâu mới của mình. Và trong cái không khí gia đình vui vẻ ấy, thị lại không muốn phá hỏng nó, khiến cho bà cụ trở nên bối rối. Cuối cùng thì cảnh thị kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà lại đi phá kho thóc của Nhật đã bộc lộ được ra những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà bà này không cam chịu được cuộc đời đói kém, và có lẽ là trong một mai thị sẽ cùng người chồng của mình là Tràng đi phá kho thóc, theo con đường cách mạng để giải phóng cho cuộc đời, tìm kiếm ra một tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn.
Nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân là một trong số những nhân vật đại diện cho hàng triệu những kiếp người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Tuy nhiên phải sống trong cái cảnh khốn khổ cùng đường nhưng thị vẫn giữ được cho mình những vẻ đẹp của một tâm hồn quý giá, tiêu biểu nhất ấy là niềm khao khát được sống, khao khát có được sự hạnh phúc, tia hy vọng vào một tương lai mới tốt đẹp hơn trước.Qua đó bộc lộ được rõ nét tư tưởng nhân văn và nhân đạo mà tác giả muốn truyền tải đến cho người đọc trong tác phẩm của mình.
Phân tích nhân vật Thị trong truyện Vợ Nhặt - Bài làm 4
Kim Lân (sinh năm 1920, mất năm 2007) là cây bút chuyên viết truyện ngắn của nền văn học Việt Nam. Thế giới nghệ thuật của ông chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Có lẽ vì sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lý của những người nông dân nghèo, những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Trong kho tàng tác phẩm của ông, truyện ngắn Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc nhất, và trong đó nhân vật Thị là nhân vật đem lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho độc giả.
Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lâm xây dựng là một người phụ nữ không tên tuổi, không gốc gác, quê quán, không người thân, họ hàng. Tác giả gọi nhân vật bằng đại từ phiếm chỉ "Thị", "ả", "người đàn bà" cho thấy thân phận mờ nhạt, đáng thương của nhân vật, nhưng đây cũng là cách mà tác giả gợi đến cho người đọc hình ảnh của bất cứ người đàn bà khốn khổ, nghèo đói, cùng đường và liều lĩnh trong xã hội thời đó. Chỉ vài câu miêu tả ngắn ngủi, Kim Lân đã cho thấy sự hiện hình của cái đói trên khuôn mặt Thị: “Áo quần tả tơi như tổ đỉa, Thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.” Không chỉ là hình dáng bên ngoài, đến cả vẻ dịu dàng, nữ tính thiên bẩm của người phụ nữ ở Thị cũng bị cái đói bóp méo đến thảm hại. Thị đanh đá, táo bạo đến mức trơ trẽn, thậm chí vứt bỏ liêm sỉ.
Lần đầu tiên gặp Tràng, khi nghe câu hò của Tràng: "Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh", Thị đã vùng đứng dậy đẩy xe cho Tràng. Ở lần gặp thứ hai, Thị sưng sỉa đến mắng Tràng vì không giữ lời hứa, Thị từ chối lời mời ăn trầu của Tràng để được ăn một thứ có giá trị hơn. Khi được mời ăn thì Thị mắt sáng lên, không ngại ngùng mà "ngồi sà xuống ăn một chập bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì". Trong con mắt của chúng ta, Thị sao mà vô duyên, trơ trẽn quá. Nhưng ôi chao, đó đâu phải bản chất của Thị, là cái đói cái khổ cào cấu ruột gan đã khiến Thị quên hẳn ý tứ, đánh mất đi sự e thẹn vốn có của người con gái trước mặt một người đàn ông mới quen. Khi nghe Tràng nói bông đùa: "Này nói đùa chứ, có về ở với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về" mà "Thị về thật". Có thể thấy, đến cả việc lấy chồng, theo một người đàn ông về nhà chung sống cả đời Thị cũng quyết định theo bản năng, dù cho ánh nhìn và những lời bàn tán của người dân xóm ngụ cư đang nhắm thẳng vào Thị khiến Thị xấu hổ, tủi nhục. Tuy nhiên, từ chi tiết này ta cũng có thể thấy hình ảnh một người con gái có lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là để được sống chứ không phải loại đàn bà con gái lẳng lơ. Thị không cần mai mối, không cần cưới hỏi, không cần mâm cao cỗ đầy, Thị theo Tràng về nhà chỉ với hy vọng có miếng ăn.
Về tới nhà Tràng, thấy cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, trong nhà, niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất, thì chị ta không khỏi chán nản, thất vọng: "Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài". Hóa ra gia cảnh của anh chàng mới ban trưa còn vỗ vỗ vào túi khoe rích bố cu là thế này đây! Chị còn biết làm sao được nữa? Việc đã rồi! Thất vọng, buồn tủi, chua xót quá nên mặc cho Tràng lăng xăng, đon đả, chị ta chỉ nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng mời ngồi, chị ta chỉ "ngồi mớm xuống mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần".
Khi gặp bà cụ Tứ - mẹ của Tràng, Thị lại quay về dáng vẻ khép nép, e thẹn của người con gái mới về nhà chồng. Nếu như hôm qua, cái đói đã làm mất đi những gì là nữ tính ở chị thì hôm nay, chỉ sau một bữa ăn no, một đêm ngủ ấm dưới mái nhà bình yên thì vẻ đẹp ấy đã trở về với Thị. Thị bắt đầu vun vén cho tổ ấm của mình: "Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng.Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch". Thị như một cơn gió mát lành thổi vào cuộc sống u ám của hai mẹ con Tràng, khiến sự sống trở về với người, với cảnh. Sự thay đổi ấy khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: "Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh". Còn bà cụ Tứ thì "nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Vẻ đẹp tiềm tàng của người vợ nhặt này còn thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ trong bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, khi được mẹ chồng đưa cho bát chè cám "đắng nghét, nghẹn bứ nơi cổ họng", hai con mắt chị ta thoảng tối lại, nhưng ngay sau đó, chị điềm nhiên và vào miệng. Đây là một chi tiết rất đắt, thể hiện sự tinh tế trong nhận thức và sự khéo léo trong cách cư xử của người đàn bà tưởng chừng như đanh đá, trơ trẽn. Chị hiểu ra cơ sự của mẹ con Tràng nhưng chị không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ chồng già nua, tội nghiệp. Cuối cùng cảnh Thị kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho thóc của Nhật đã bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của Thị, người đàn bà này không cam chịu cuộc đời đói kém, và có lẽ trong một mai thị sẽ cùng chồng là Tràng đi phá kho thóc, theo cách mạng để giải phóng cuộc đời, tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.
Nhân vật Thị trong truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân là nhân vật đại diện cho hàng ngàn người phụ nữ nói riêng và hàng triệu người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Đây là một nhân chứng có ý nghĩa tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật và Pháp khi gây ra nạn đói khủng khiếp đẩy nhân dân ta vào cảnh lầm than, không được sống đúng nghĩa là một con người. Cũng qua tác phẩm này, nhà văn Kim Lân đã khắc họa nên hình ảnh người vợ nhặt vô cùng thành công. Tác giả chú trọng khắc họa từng hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Từ đó làm nổi bật lên những phẩm chất quý giá của người phụ nữ Việt Nam dù họ không có vẻ ngoài đẹp đẽ hay ở trong hoàn cảnh lầm than.