Phân tích truyện Rừng xà nu - Bài làm 1
Nhà văn Nguyễn Trung Thành là một người xuất thân từ Tây Nguyên, ông cũng từng hoạt động ở chiến trường miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Truyện ngắn "Rừng xà nu" là tác phẩm tiêu biểu nổi bật với hình ảnh trung tâm là "Rừng xà nu". Nó được biết đến như một loài cây quen thuộc nơi núi rừng Tây Nguyên kiên cường và bất khuất như cư dân Tây Nguyên dù sống trong môi trường khắc nghiệt nhưng bền bỉ.
Truyện ngắn “Rừng xà nu” được viết năm 1965 trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt, đặc biệt là ở chiến trường Tây Nguyên, nơi Mỹ đổ quân ào ào vào để xâm chiếm, khủng bố. Tác phẩm được in trên tạp chí Văn nghệ giải phóng, trích trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Ra đời trong bối cảnh như vậy, tác phẩm được coi như là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến gian khổ của nhân dân ta.
Mở đầu tác phẩm nhà văn đã so sánh hình ảnh cây xà nu với những cư dân Tây Nguyên là hình ảnh ẩn dụ cho cốt cách, sức sống của đồng bào Tây Nguyên từ trước đến nay không chịu khuất phục, đầu hàng trước số phận, kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do dân tộc. Rừng xà nu được coi là sự kết tinh nghệ thuật khi miêu tả cây gắn liền với đời sống sinh hoạt của cư dân Tây Nguyên, gắn liền với sự trưởng thành của bao thế hệ. Từ đó để tác giả muốn tái hiện chân thực cuộc sống và chiến đấu của người dân nơi đây - thế hệ giàu lòng yêu nước đó là của Tnú, chị Mai, cụ Mết và bé Heng, những người thuộc thế hệ Từ thế hệ này qua thế hệ khác, thế hệ nào cũng cố gắng lớn lên, thay phiên nhau bảo vệ quê hương Tây Nguyên, những gương anh hùng sáng chói với non sông, Tổ quốc.
Đặc biệt hai hình tượng lớn có ý nghĩa tượng trưng sâu sắc trong tác phẩm đó là hình ảnh cây xà nu và hình tượng con người Tây Nguyên thể hiện vẻ đẹp, phẩm chất cao đẹp của con người làng Xô man. Cây xà nu gắn bó với đời sống sinh hoạt của cư dân làng Xô Man: bếp lửa xà nu trong từng gian bếp, bếp lửa nhà bàng, chứng kiến ròng rõng các cuộc đấu tranh của dân làng Xô Man “Đêm thắp đuốc người mài vũ khí”…. Chẳng điều gì có thể ngăn cản được sự phát triển, sinh sôi nảy nở của rừng cây xà nu. Chúng lớn rất nhanh, “đạn đại bác không giết nổi chúng”. Cây xà nu mang vẻ đẹp biểu tượng cho phẩm chất, sức mạnh quật cường, bất diệt của dân làng Xô Man. Là một loài cây ham ánh sáng như ngầm ý chỉ con người nơi đây luôn luôn hướng về phía ánh sáng của đảng, mặt trời cách mạng. Mặt trời phải luôn vươn cao, vươn thẳng như niềm tin vào lý tưởng, đường lối cách mạng người dân làng Xô Man. Cây xà nu thường mọc thành rừng nhằm ngụ ý của tác giả muốn khắc họa tinh thần đoàn kết của dân làng Xô Man bất chấp mọi hoàn cảnh vẫn sát cánh bên nhau.
Nổi bật hơn cả là hình tượng nhân vật Tnú,thế hệ tiếp bước cha anh, người anh hùng tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man và có tình yêu sâu nặng với Mai. Tác giả đã khắc họa hình tượng nhân vật Tnú hiện lên với tinh thần bất khuất, ý chí quật cường, một lòng trung thành với Đảng, Cách mạng. Tuổi nhỏ, Tnú đã thể hiện bản lĩnh cách mạng kiên cường bằng cách tham gia phong trào nuôi giấu cán bộ trong rừng, quyết tâm học chữ để sau này lớn lên trở thành cán bộ chiến sĩ. Khi trưởng thành, anh cùng dân làng nung nấu ý chí đánh giặc bằng cách mài vũ khí giấu trong rừng, thấy vợ con anh bị giết nhưng anh vẫn phải kìm nén cảm xúc, giấu đi nỗi đau của riêng mình, nhất quyết không phản ứng mạnh bội phần. Ngoài nhân vật Tnú, ông Mết là người có vai trò quan trọng đối với dân làng Xô Man, hiện thân của thế hệ cha ông dày dặn kinh nghiệm, bản lĩnh và giàu lòng yêu nước, luôn hướng cho dân làng những bước đi đúng đắn trong chiến đấu, có tầm nhìn xa, dẫn dắt dân làng theo đường lối đúng đắn.
Còn Dít là một đứa bé lanh lợi, rất gan dạ và lòng trung thành với cách mạng: lẻn vào rừng tiếp tế lương thực cho du kích, khi bị bắt vẫn rất can đảm, bình tĩnh và không cảm xúc, không tỏ vẻ sợ hãi. Con người cương nghị, luôn một lòng yêu quê hương, khác xa so với vẻ lạnh lùng bình thản vốn có thể hiện bên ngoài. Với nhân vật bé Heng, nhà văn đã phác họa hình tượng nhân vật qua những nét ngoại hình nhưng cũng đủ tạo ra ấn tượng sâu sắc cho người đọc, là một thế hệ cây xanh mới lớn và lớn rất nhanh, vẻ ngoài nhỏ nhắn nhưng lại rất tích cực tham gia vào công việc chung của làng.
Qua việc phân tích tác phẩm “Rừng Xà Nu”,tác giả đã viết lên câu chuyện thấm đẫm chất sử thi hùng tráng kết hợp cùng cảm hứng lãng mạn. Có thể cảm tưởng như được xem một bộ phim về số phận một con người với biết bao sự kiện bởi tác giả đã tái hiện không khí hào hùng của người dân Tây Nguyên. Xuyên suốt tác phẩm, nhà văn Nguyễn Trung Thành không chỉ nhấn mạnh vào khu rừng “Rừng xà nu” mà còn lột tả nét đẹp ở tuyến nhân vật là thế hệ anh hùng, kiên cường, bất khuất giữa vùng đất miền trung của cao nguyên. Từ đó, nêu bật lên cao truyền thống yêu nước quật cường, ý chí bất khuất của dân tộc ta, cũng nhằm ngợi ca, truyền động lực thế hệ con cháu mai sau tiếp nối thế hệ cha ông, tiếp tục gìn giữ núi sông.
Phân tích truyện Rừng xà nu - Bài làm 2
Tây Nguyên hùng vĩ núi non, Tây Nguyên bất khuất kiên cường với những con người bộc trực kiên trung một lòng đi theo cách mạng. Chính vùng đất sản sinh ra vố số những anh hùng dân tộc đi vào sử sách thì nơi đây cũng chính là vùng đất mang đến cảm hứng sáng tác cho tác giả Nguyễn Trung Thành. Trong những năm tháng của mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Tây Nguyên khơi nguồn cảm hứng cho ông viết truyện ngắn Rừng xà nu, một truyện ngắn xuất sắc của văn học thời chống Mĩ.
Rừng xu nu là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên với sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng mới, trẻ trung nhiệt tình, mưu trí và kiên cường. Nó chỉ là truyện ngắn nhưng dung lượng hiện thực to lớn mà giá trị lịch sử khẳng định. "Rừng xà nu" viết về những anh hùng ở làng Xô Man của người Strá trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975. Cảm hứng của nhà văn về nhân vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng vĩ gắn với hình tượng cây xà nu của Tây Nguyên. Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng xà - một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống mãnh liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất của dân làng Xô Man và các dân tộc Tây Nguyên. Và đặc biệt đó cũng là một rừng xà nu bất chấp đạn bom, vượt lên sự hủy diệt tàn bạo để tiếp nhận ánh nắng mặt trời duy trì sự sống của mình, rừng xà nu tràn trề sức sống cho dù đại bác của bọn giặc “đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng vào xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy” dồn dập nã chết chóc đau thương vào nó. Truyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu đều mang dụng ý của tác giả Nguyên Ngọc.
Suốt trong quá trình kể chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại tạo cảm giác như một điệp khúc, gần 20 lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu… Mọi thứ dường như đều xoay quanh loại cây đặc biệt này. Ngược đọc không khó nhận ra ý nghĩa của rừng xà nu là để nói lên sức sống bền vững, quật khởi của dân làng Xô Man, của Tây Nguyên bất khuất. Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, nhất là các hình ảnh "đồi xà nu" (4 lần), "rừng xà nu" (5 lần), với "hàng vạn cây" "ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng". Hình ảnh cây xà nu mở đầu truyện như cách mở đầu của bức tranh đấu tranh quyết liệt của dân làng và nó cũng là một hình ảnh mang tính dự báo. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân làng Xô Man ngã xuống. Tác giả Nguyễn Trung thành đã có dụng ý miêu tả rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ rất giàu chất thơ, chắt lọc và tinh tế ở một thứ ngôn ngữ vừa tả vừa gợi, mở ra những liên tưởng phong phú cho người đọc. Hình ảnh rừng xà nu ở đây vừa là hình ảnh thực một rừng cây “ham ánh sáng mặt trời”, vừa là hình ảnh có nghĩa tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau thương, bất khuất, kiên cường trong những ngày đồng khởi chống Mĩ. Kết hợp bút pháp đặc tả phối hợp với thủ pháp nhân hóa đã phát huy tối đa hiệu lực cua nó. Rừng xà nu hiện lên như một người bạn trung thành che chở cho dân làng Xô Man, như những con người đẹp của buôn làng. Và có thể nói rừng xà nu chính là biểu tượng về sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, của con người Việt Nam.
Truyện ngắn hiện lên như một bức tranh tái hiện chân thực toàn bộ cuộc chiến đấu đầy gian khó nhưng không thiếu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mĩ, nhà văn tập trung miêu tả sự trưởng thành một thế hệ tiếp nối, phát huy truyền thống anh hùng của cha ông và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc Mĩ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó là Tnú và Dít. Sự trưởng thành của họ gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân Strá làng Xô Man. Tnú nhân vật chính của Rừng xà nu đã mồ côi cha mẹ từ nhỏ, người con của núi rừng Tây Nguyên ấy lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng, nuôi dạy khôn lớn. Đó là người anh hùng dân tộc lớn lên, trưởng thành và kiên cường bất khuất từ trong lòng của nhân dân, của dân tộc. Tnú đến với cách mạng ngay từ khi còn rất nhất vào thời điểm của những ngày gian khổ, ác liệt nhất khi mà Mĩ Diệm đang ngày đêm khủng bố cách mạng ở khắp mọi nơi. Chính Tnú đã chững kiến cảnh đau thương của dân làng. Bọn giặc “treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, chỉ vì họ là những người dũng cảm, dám nuôi dấu cán bộ cách mạng. Khi Tnú vào rừng nuôi cán bộ, tiếp nhận tri thức, lẽ sống qua sự chỉ bảo của anh cán bộ Quyết. Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc phục kích, bắt được, chúng dẫn về làng, tra tấn đủ mọi cách, lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém nhưng Tnú vẫn không khai báo, chỉ điềm tĩnh chỏ và bụng mình để trả lời câu hỏi cùa kẻ thù: "Cộng sản ở đây này”. Câu trả lời ấy đâu chỉ đơn giản là một câu trả lời mà đó là cả một lời thách thức, sự dũng cảm! Và chính lời thách thức ấy, Tnú phải trả giá bằng ba năm tù. Thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú là một thanh niên, trưởng thành hơn về nhân cách. Anh hiểu rõ nhiệm vụ của mình khi tiếp nhận lời trăng trối của anh Quyết. Anh trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Anh thực hiện ngay lời dặn của anh Quyết “chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná…" chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho cuộc chiến đấu sắp tới. Và hạnh phúc đến với anh trong những ngày đó. Mai, cô bạn gái cùng anh đi liên lạc trở thành người bạn đời của anh. Lại một thử thách nữa đến với Tnú: bọn giặc ở đồn Dác Hà xuống làng Xô Man truy bắt anh, vợ con anh sa vào tay chúng. Không thể cầm lòng trước cảnh giặc tra tấn vợ con. Tnú đành phải ra đối đầu với bọn chúng. Và trong cuộc đối đầu này, phẩm chất kiên cường của anh càng sáng hơn bao giờ hết. Giặc bắt Tnú, chúng đốt mười ngón tay anh, “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc", răng cắn chặt môi, không một tiếng kêu vang, Tnú trừng trừng ném căm giận vào kẻ thù. Có thể nói Tnú là hình ảnh của Tây Nguyên đau thương, bất khuất. Sự tàn bạo của kẻ thù đã lên tới tột đỉnh và nhân dân cũng không thể cam chịu sống dưới ách tàn bạo đó. Cho nên, khi tiếng thét căm giận Tnú vang lên, tiếng thét như một lời báo hiệu triệu dân làng cầm vũ khí đứng lên, cả làng Xô Man đứng dậy. “Tiếng giết”, tiếng chân người đạp nhà ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh… Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú rồi sau đó anh vào giải phóng quân đi giải phóng cho nhân dân, giải phóng đất nước với một nhận định sâu sắc hơn.
Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, cô bí thư chi bộ xã kiêm chính trị viên xã đội làng Xô Man. Ba năm trước, ngày Tnú ra đi. Dít “còn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh không ngủ…". Vậy mà, khi Tnú trở về, cô bé ấy đã đảm trách những công việc trọng yếu nhất của làng Xô Man. Sự trưởng thành kì lạ của Dít không phải ngẫu nhiên mà là quá trình rèn luyện vượt qua thử thách lúc còn nhỏ. Dít là một đứa bé lanh lợi, rất gan dạ. Lần ấy, Dít bị giặc bắt “Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai bàn chân nhỏ của Dít. Váy nó rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng lẽ giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó giật lên một cái nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng”. Không chỉ gan góc Dít còn là một cô bé cương nghị. Chứng kiến cái chết đau thương của chị Mai, Dít “lầm lì không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người cả cụ già, đều khóc”. Cứ thế Dít lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của làng Xô Man. Trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng, Dít cũng tỏ rõ là người có bản lĩnh, có sức thuyết phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dít, không khỏi xúc động, nhìn anh với “đôi mắt mở to bình thản trong suốt”. Ấy vậy, chị không quên trách nhiệm của minh khi hỏi “đồng chí có giấy không?”, khi tuyên bố dứt khoát “không có giấy thì không được, ủy ban phải bắt thôi” và sau khi xem giấy của Tnú chị lại nói tiếp “sao anh về có một đêm thôi”. Con người Dít như vậy đó, gan góc, cương nghị, không kém phần tha thiết với quê hương, đành rằng bề ngoài tưởng như chỉ có lạnh lùng bình thản.
Tnú và Dít tiêu biểu cho thế hệ thanh niên làng Xô Man, từ lòng căm thù của họ đến với cuộc chiến đấu của dân tộc và chính trong cuộc chiến đấu đó, họ trưởng thành. Sự trưởng thành của họ có cội nguồn của có một mặt là do họ tự vượt mình qua những thử thách lớn lao, mặt khác là do có sự dìu dắt cách mạng của cha ông. Đặc biệt sự trưởng thành của Tnú và Dít được Nguyên Ngọc miêu tả trong mối quan hệ với truyền thông anh hùng của người Strá. Cụ Mết chính là đại diện cho thế hệ cách mạng đi trước của làng Xô Man.
Cụ là pho sử sống, là chỗ dựa tinh thần của dân làng. Tuy già nhưng “cụ vẫn quắc thước như xưa… ngực cũng như một tấm xà nu lớn… tiếng nói vẫn ồ ồ vang trong lồng ngực”, vẫn sáng suốt ngày đêm lãnh đạo cuộc chiến đấu của làng. Có lẽ cuộc đời cụ đã nếm trải qua nhiều đau khổ, đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm quý báu, cho nên cụ luôn luôn nhắc nhờ con cháu nhớ tới quá khứ đau thương bất khuất của quê hương. Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyên Ngọc muốn khẳng định vai trò của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ! Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ truyền thống, với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu hiện tại. Chính vì có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít… có sự trưởng thành lớn lao.
Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lại lấy tên là "Rừng xà nu"… Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp tượng trưng, tư tưởng chủ đề của truyện "Rừng xà nu" thêm sâu sắc. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà những nhân vật anh hùng thêm bất tử.
Phân tích truyện Rừng xà nu - Bài làm 3
Tác giả Nguyễn Trung Thành là nhà văn đến từ Tây Nguyên, ông cũng từng hoạt động ở chiến trường miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Truyện ngắn "Rừng xà nu" là tác phẩm tiêu biểu của tập sách, hình ảnh "Rừng xà nu" là hình ảnh trung tâm của bài văn. Nó được biết đến như một loài cây phổ biến ở núi rừng Tây Nguyên, cứng cỏi, kiên cường và bất khuất như cư dân Tây Nguyên, sống trong môi trường khắc nghiệt nhưng bền bỉ.
Truyện ngắn “Rừng xà nu” được Nguyễn Trung Thành sáng tác năm 1965 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt, nhất là ở chiến trường Tây Nguyên, nơi Mỹ đổ quân vào để khủng bố, giết hại. . Ra đời trong hoàn cảnh ấy, tác phẩm có ý nghĩa quan trọng, là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với dân tộc Việt Nam, là động lực để quân và dân ta kháng chiến gian khổ.
Hình ảnh cây xà nu được so sánh với những cư dân Tây Nguyên không chịu khuất phục trước số phận, thời tiết, không chịu đầu hàng, vẫn kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do của mình thời bấy giờ. Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, những cây xà nu vươn dài che chở dân làng tránh bão, săn bắt, giúp cán bộ cách mạng thực hiện sách lược.
Có thể coi Rừng xà nu là kết tinh nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành khi tài năng của ông đang ở đỉnh cao. Vì vậy, đây cũng có thể coi là một trong những tác phẩm thành công nhất trong sự nghiệp văn chương của ông. Rừng Xà Nu là bản anh hùng ca về các dân tộc và núi rừng Tây Nguyên - là một tập thể anh hùng đứng lên giành tự do, độc lập cho mình.
Cây xà nu gắn liền với đời sống sinh hoạt của cư dân Tây Nguyên, gắn liền với sự trưởng thành của bao thế hệ dân làng Xô Man, đó là của Tnú, chị Mai, cụ Mết và bé Heng, những người thuộc thế hệ Từ thế hệ này qua thế hệ khác, thế hệ nào cũng cố gắng lớn lên, thay phiên nhau bảo vệ quê hương Tây Nguyên, nhưng cây xà nu vẫn gắn bó, trải qua bao bom đạn với dân làng nơi đây.
Trong truyện ngắn “Rừng xà nu” tác giả đã xây dựng hai hình tượng lớn có ý nghĩa tượng trưng sâu sắc đó là hình ảnh cây xà nu và hình ảnh những con người anh dũng đại diện cho sức mạnh và vẻ đẹp của làng Xô man. Hình ảnh cây xà nu xuất hiện xuyên suốt tác phẩm. Cây xà nu là loài cây đặc trưng của vùng đất Tây Nguyên, gắn bó với đời sống sinh hoạt của cư dân làng Xô Man: bếp lửa xà nu trong từng gian bếp, bếp lửa nhà bàng. .Chứng kiến cuộc đấu tranh của dân làng Xô Man “Đêm thắp đuốc người mài vũ khí”…. Dưới làn đạn đại bác, xà nu rừng vươn thân cao lớn che chở cho làng, chịu đau đớn đến nỗi “trong cả khu rừng đại ngàn không một cây nào là không đau”. Cây xà nu cũng là người chứng kiến cuộc nổi dậy của dân làng trong đêm Tnú bị tra tấn, anh đã kề vai sát cánh cùng mọi người chiến đấu. Cây xà nu còn mang vẻ đẹp biểu tượng cho phẩm chất, tâm hồn và ý chí của người dân Tây Nguyên nói chung và dân làng Xô Man nói riêng. Loài cây này có khả năng sinh sôi rất mạnh, mọc rất nhanh để thay thế những cây bị đổ, vẻ đẹp này tượng trưng cho sức sống bất diệt của người dân làng Xô Man, hơn nữa rắn rất thèm ánh sáng. Mặt trời phải luôn vươn cao, vươn thẳng như tinh thần cách mạng, yêu tự do của người dân làng Xô Man, từ già đến trẻ đều tin vào lời dạy của Người Đảng còn, núi nước còn. Cây xà nu thường mọc thành rừng tượng trưng cho tinh thần đoàn kết của dân làng Xô Man. Trong mọi hoàn cảnh gian khổ, đau thương, mất mát, các thế hệ người dân làng Xô Man đã luôn sát cánh bên nhau, trên dưới thương yêu nhau. được và hoàn toàn đúng với lời của bà cụ.
Dưới tán rừng này là nơi ở của những con người anh hùng với phẩm chất tốt đẹp, tiêu biểu cho vẻ đẹp của người dân Làng Xô Man nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung. Quan trọng nhất là hình tượng nhân vật Tnú, trong đời thường Tnú là một chàng trai trung thành và có tình yêu sâu nặng với Mai, ngoài ra anh cũng yêu quê hương tha thiết, trước khi là anh hùng Tnú là người con ưu tú của làng Xô Man . Tnú nổi bật về tinh thần bất khuất, lòng dũng cảm và lòng trung thành với cách mạng. Tuổi còn trẻ, Tnú đã thể hiện bản lĩnh cách mạng kiên cường, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp chung như tham gia phong trào nuôi giấu cán bộ trong rừng, quyết tâm học chữ để trở thành cán bộ tốt, rồi trở thành liên lạc viên của anh. đưa thư. Lớn lên, Tnú cùng dân làng nung nấu ý chí đánh giặc bằng cách mài vũ khí giấu trong rừng, khi chính tay bọn khủng bố giết chết Tnú, nhìn thấy vợ con anh bị giết nhưng anh vẫn phải nén nỗi đau của riêng mình, kiên quyết không phản ứng mạnh bội phần. Ngay cả khi bị kẻ thù tra tấn bằng “một ngón tay… răng đã cắn vào môi”, bản lĩnh cách mạng đã giúp Tnú có sức chịu đựng phi thường.
Tnú là thế hệ tiếp bước cha anh, người anh hùng tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man. Ngoài nhân vật Tnú, ông Mết là người có vai trò quan trọng đối với dân làng Xô Man, là một già làng xưa vẫn có công giáo dục truyền thống, dẫn dắt dân làng đi lên, ông dạy cho dân làng “những “. Đã cầm súng thì phải cầm giáo”, rồi Bác chỉ đạo dân làng “Đánh Mỹ cho đánh dài”, và Bác thường kể chuyện về Tnú cho dân làng và con cháu nghe. vai trò quan trọng trong khởi nghĩa của nhân dân Xô Man, ông đã giáo dục, định hướng và lãnh đạo dân làng vùng lên. Dít là một cô gái gan dạ, ngay từ nhỏ đã bộc lộ bản chất dũng cảm và lòng trung thành với cách mạng: lẻn vào rừng tiếp tế lương thực cho du kích, khi địch bắt và khủng bố tinh thần của Dít, kẻ thù điềm tĩnh và lạnh lùng. Lớn lên, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng, làm việc rất nghiêm túc, biết kìm nén cảm xúc riêng và đặt nhiệm vụ chung lên trên hết. Nói và bé Heng như một thế hệ cây xanh mới lớn và lớn rất nhanh, bé Heng trông nhỏ con nhưng thuộc hết các việc lớn thăm thẳm, biết tham gia vào công việc chung của dân làng, tỏ ra là một người lính thực thụ. . Nhà văn đã xây dựng hệ thống nhân vật với ba thế hệ, lớp cha (ông Mết), lớp thanh niên (Tnu), lớp măng non (Dít và bé Heng), tất cả đều có những phẩm chất tiêu biểu cho phẩm chất cộng đồng - là những người có tầm vóc lịch sử.
Qua việc phân tích tác phẩm “Rừng Xà Nu”, có thể thấy tác phẩm thấm đẫm chất sử thi hùng tráng. Có thể thấy điều này từ chủ đề tác phẩm, đến nhân vật, đến giọng điệu. Qua tác phẩm “Rừng xà nu” tác giả đã tái hiện không khí hào hùng của dân làng Xô Man nói riêng và của dân tộc ta nói chung. Như đã phân tích xuyên suốt tác phẩm, ta có thể thấy điểm mạnh của “Rừng xà nu” không chỉ nằm ở hình ảnh khu rừng ngay từ đầu mà còn ở tuyến nhân vật là những người anh hùng, kiên cường, bất khuất giữa miền trung của cao nguyên . Phân tích rừng rậm như hát lên một bài ca chiến trận hào hùng, hòa mình vào tinh thần chiến đấu của những người dân làng Xô Man thật thà, anh dũng. Đồng thời, kết cấu tác phẩm được xây dựng theo hình thức truyền kỳ trong những câu chuyện có thật đã lôi cuốn tác phẩm của Nguyễn Trung Thành.
Tác phẩm “Rừng xà nu” với sự kết hợp giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đã mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về hình tượng cây xà nu và những “anh hùng dân tộc” của làng Xô man thời kháng chiến chống Mỹ. Nêu cao truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất của dân tộc ta, đồng thời động viên, biểu dương thế hệ con cháu mai sau noi gương cha ông, tiếp tục gìn giữ núi sông.