Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ

Thứ sáu - 17/05/2024 00:19
Với vốn hiểu biết về phong tục tập của nhiều vùng miền khác nhau với lối trần thuật hóm hỉnh, đậm chất tạo hình, Tô Hoài đã viết nên câu chuyện về con người vùng đất này.

Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ - Bài làm 1

Với vốn hiểu biết về phong tục tập của nhiều vùng miền khác nhau với lối trần thuật hóm hỉnh, đậm chất tạo hình, Tô Hoài đã viết nên câu chuyện về con người vùng đất này. Một trong những tác phẩm thành công nhất của ông viết về con người Tây Bắc đó chính là truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Câu chuyện ấy đã phản ánh chân thực nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người dân tộc thiểu số với khát khao được tự do, được sống một cuộc sống hạnh phúc. Và hình ảnh nhân vật A Phủ được tác giả xây dựng chính là hiện thân cho những con người ấy.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952 sau chuyên đi thực tế lên vùng miền núi với cán bộ giải phóng Tây Bắc đã đem đến cho nhà văn cái nhìn nhận sâu sắc với cảnh vật và con người nơi đây. Và truyện ngắn được in trong tập truyện Tây Bắc, là tác phẩm phản ánh nét đặc sắc trong cuộc sống và số phận của người nông dân nghèo dưới áp  bức, bóc lột của bọn thực dân phong kiến miền núi. Để từ đó tác giả muốn làm nổi bật lên khát vọng và nghị lực sống mãnh liệt của họ. Bên cạnh chất thơ toát lên từ chủ đề của tác phẩm nhà văn muốn nhấn mạnh hình tượng nhân vật với những nét phẩm chất tốt đẹp được khắc họa trong cốt truyện ẩn sâu trong tâm hồn đôn hậu chất phác của nhân vật chính hòa quyện cùng bức tranh thiên nhiên mang đa sắc màu, một điểm nhấn tạo nên ấn tượng cho tác phẩm trong lòng người đọc.Tác phẩm chính là tiếng nói của c người dân nghèo ở miền núi Tây Bắc về cuộc đời tủi nhục, khốn khó. Họ đi từ những áp bức, bóc lột luôn khát khao về tự do, hạnh phúc, từ cuộc sống tăm tối đến cuộc sống của ánh sáng niềm vui và từ thân phận nô lệ trở thành chiến sĩ chiến đấu bảo vệ quê hương của mình.

 Trong số đó, Tô Hoài đã xây dựng hình tượng nhân vật A Phủ là đại diện cho kiếp người kiên quyết không chấp nhận sự áp bức luôn mang trong mình sự phản kháng quyết liệt. Sự chuyển biến trong hành động xen lẫn cả tâm lí của a phủ chính là sự chuyển biến hợp lý đi từ tự phát đến tự giác. Đây cũng chính là sự chuyển biến của dân tộc ta trong cách mạng đi từ tự phát đến tự giác. Hình ảnh A Phủ được nhà văn giới thiệu mở đầu qua cuộc đánh nhau với A Sử rồi bị tra tấn, đánh đập tàn bạo ở nhà thống lý Pá Tra rồi mới quay ngược thời gian đi sâu vào xuất thân của nhân vật A Phủ.

A Phủ được nhắc tới trong câu chuyện là một chàng trai có số phận khổ cực, anh đã mất đi người thân trong gia đình vì nạn dịch bệnh, và bị người ta đem bán cho một người Thái ở bản dưới để đổi lấy thóc nhưng với tính cách ngang bướng anh đã chạy trốn được lên Hồng Ngài và sống một cuộc đời mới. Tự thân anh kiếm sống, chăm chỉ làm ăn nhưng vì nhà nghèo nên không thể lấy được vợ. Trong buổi đi chơi ngày xuân, thấy được sự hống hách, ngang ngược của A Sử đã làm A Phủ chông gai chướng mắt mà đánh cho A Sử một trận ra trò. Từ đó, A Phủ đã bị buộc tội và phải làm thuê gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra.

 A Phủ bị cha con thống lý đánh đập suốt cả ngày lẫn đêm đến mức mặt sưng lên, môi chảy máu nhưng vẫn không tha. Với tính cách ngang bướng của mình, bất biết chuyện gì xảy ra  A Phủ chỉ in như cái tượng đá . Qua điều này thể hiện nét nổi bật trong tính cách ngang tàn, gai góc của nhân vật dám làm dám chịu. Dù chỉ là người làm thuê không công cho nhà Thống Lý nhưng A Phủ vẫn chăm chỉ, cần mẫn, làm đủ mọi việc quanh năm một mình đốt rừng, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, làm nương,.. việc gì A Phủ cũng quần quật chẳng hề so đo tính toán. Thế nhưng vì một lần mải bẫy chim vô tình để hổ bắt mất con bò mà A Phủ đã bị nhà thống lý tra tấn, đánh đập dã man, không cam chịu "anh nhai đứt hai vòng dây trói xong không thoát", bị bỏ đói suốt mấy ngày. A Phủ thương thân mình, đau khổ, tuyệt vọng, nước mắt của chàng trai mạnh mẽ yêu tự do phải cay đắng buông tay trước số phận nghiệt ngã động đến lòng thương cảm của trái tim người đọc và cả nhân vật Mị. Từ đó càng lộ rõ hơn bản chất thối tha của chế độ phong kiến cường quyền ở miền núi.

Bao kiếp người đã phải trải qua kiếp nạn như vậy trong nhà thống lí, họ gồng mình thoát ra nhưng cũng đến bất lực. Song hành với tuyến nhân vật được nhà văn Tô Hoài lột tả trong câu chuyện, nhân vật mị được miêu tả là một người có sức sống mãnh liệt, tiềm tàng thì A Phủ lại được ông tập trung khắc họa ở tính cách ngang tàng, cứng cỏi của một chàng thanh niên tràn đầy sinh lực, mang trong mình khát vọng cuộc đời tự do. Đây cũng chính là nét đẹp trong tâm hồn chàng trai lao động miền núi mà Tô Hoài tìm ra và tái hiện lại trong câu chuyện một cách chân thật nhất.  A Phủ sống giữa núi rừng bao la, anh nghèo tiền bạc nhưng không nghèo phẩm chất, không nghèo tâm hồn, cuộc sống anh phóng khoáng hồn nhiên yêu đời. Dù mệt và đói đến mấy cũng rực lên khát vọng tự do đặc biệt trong tình tiết được Mị giúp cởi trói ngay khi đó A Phủ đã vùng thoát chạy đ. Dẫu trong đêm tối không biết đi đâu nhưng đối với họ thoát khỏi nhà thống lý nghĩa là đã giải thoát số phận bất hạnh, được thoát khỏi địa ngục trần gian và sống một cuộc đời mới.

Qua sự tinh tế trong quan sát nhân vật, Tô Hoài khắc họa thành công hình tượng nhân vật nổi bật với sở trường quan sát nhạy bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người. Đó chính là một trong nhiều yếu tố khiến tác giả xây dựng được một hình tượng đặc sắc khi chỉ vài đường nét đơn giản. Thông qua A Phủ giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm càng được tô thêm rõ nét hơn.Nhân vật A Phủ trở thành biểu tượng trong quá trình giác ngộ, cho sự đấu tranh mạnh mẽ của những người nông dân miền núi.

Nguyễn Minh Châu từng viết “Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn của con người”. Với nhà văn Tô Hoài, ông không chỉ tìm tòi, phát hiện mà vực dậy nét tính cách gai góc trong con người A Phủ. Qua đó nhà văn khéo léo gửi quan niệm về cuộc sống của bản thân vào nhân vật của mình rằng: Con người lao động, trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ luôn giữ bản lĩnh và sẵn sàng đấu tranh  cho chính hạnh phúc của bản thân mình.
 

Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ - Bài làm 2

Tô Hoài như một từ điển sống, một kho sách sống. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau với lối trần thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo và cách miêu tả đậm chất tạo hình. Một trong những tác phẩm thành công nhất của ông viết về con người Tây Bắc đó chính là truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Qua truyện ngắn Tô Hoài đã phản ánh lỗi thống khổ và sự vùng dậy của người mèo ở vùng Tây Bắc, một lòng đi theo kháng chiến để giành lấy tình yêu và hạnh phúc. Tiêu biểu cho những con người ấy chính là A Phủ, một nhân vật đã góp phần thành công của tác phẩm.

Năm 1952 tô hoài đã vào giải phóng Tây Bắc, trong chuyến đi thực tế này đã đem đến cho nhà văn cái nhìn nhận sâu sắc với người và cảnh Tây Bắc. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ được in trong tập truyện Tây Bắc. Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét nhất cuộc sống và những số phận bất hạnh của người nông dân nghèo dưới ách áp bức, bóc lột của cường quyền. Nổi bật trong đó chính là khát vọng và nghị lực sống mãnh liệt của họ.

A Phủ là nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc về sự vượt lên số phận. Tô Hoài đã rất thành công khi khắc họa nhân vật này. A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm nhưng dường như lại khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc sau khi đọc xong tác phẩm với những tính cách phẩm chất khiến người ta vừa xót thương vừa nể phục.

Thành công của Tô Hoài trong Vợ Chồng A Phủ trước tiên là ở cốt truyện cùng hình tượng nhân vật với những nét cá tính khá rõ. Bên cạnh đó chất thơ toát lên từ chủ đề của tác phẩm và từ tâm hồn đôn hậu chất phác của nhân vật chính hòa cùng bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc là điểm nhấn tạo nên ấn tượng của tác phẩm.

Tác phẩm chính là cuộc đời đau khổ tủi cực, nhục nhã của người dân nghèo ở miền núi Tây Bắc. Họ từ cuộc đời nô lệ, áp bức, khổ nhục cho đến cuộc đời tự do, hạnh phúc, từ cuộc sống tăm tối đến cuộc sống của ánh sáng niềm vui và từ thân phận trâu bò trở thành những chiến sĩ du kích chiến đấu giải phóng quê hương và giải phóng cho chính cuộc đời mình.

A Phủ là đại diện cho con người không chấp nhận sự áp bức cường quyền, nên đã vùng dậy phản kháng quyết liệt. Sự chuyển biến của a phủ chính là sự chuyển biến hợp lý đi từ tự phát đến tự giác. Đây cũng chính là sự chuyển biến của dân tộc ta trong cách mạng đi từ tự phát đến tự giác. A Phủ xuất hiện trong tác phẩm với hoàn cảnh khá đặc biệt. Hình ảnh A Phủ hiện lên thông qua cuộc đánh nhau với A Sử bị bắt bị đánh đập tàn nhẫn ở nhà thống lý Pá Tra rồi mới quay ngược thời gian để kể lại lai lịch của A Phủ.

A Phủ là một chàng trai có số phận bất hạnh, vì nghèo đói cả gia đình anh đã phải chết trong một trận bệnh dịch. Anh mồ côi cả cha lẫn mẹ và bị người ta đem bán cho một người Thái ở bản dưới. A Phủ với tính cách ngang bướng và không chịu khuất phục, nhưng anh rất chăm chỉ làm ăn nhưng vì nhà nghèo nên anh không lấy được vợ. Khi đi chơi Mùa xuân vì không chịu đựng được sự ngang tàn, hống hách của A Sử mà A Phủ đã đánh A Sử để rồi bị buộc làm người ở gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra.

 A Phủ bị người nhà thống lý bắt đánh suốt đêm đến mức "mặt A Phủ sưng lên, môi và đôi mắt chảy máu, hai đầu gối sưng bệnh lên như mặt hổ phù". Dù vậy với tính cách ngang bướng của mình A Phủ chỉ in như cái tượng đá. Điều đó thể hiện sự gan góc dám làm dám chịu. Thành người ở không công cho nhà Thống Lý, A Phủ vẫn là chàng trai của tự do, dù phải quanh năm một mình đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, việc gì A Phủ cũng làm phăng phăng chẳng hề tính toán thiệt hơn.

Mải bẫy chim để hổ bắt mất một con bò, A Phủ đã bị nhà thống lý thối và đánh đập dã man. A Phủ không cam chịu "anh nhai đứt hai vòng dây trói xong không thoát". A Phủ khóc tuyệt vọng, nước mắt của chàng trai mạnh mẽ yêu tự do phải cay đắng buông tay trước số phận nghiệt ngã làm rung động trái tim người đọc. Ta càng thấy hơn bộ mặt tàn bạo của chế độ phong kiến cường quyền ở miền núi khi xưa.

Cuộc đời của người nông dân ở bản Hồng ngài hình như đều kết thúc với cái cọc trong nhà thống lý. Khi mọi người đều cố gắng thoát khỏi nhưng đều bất lực. Nếu như Mị được miêu tả là một người có sức sống mãnh liệt thì đối với A Phủ được tập trung khắc họa ở tính cách bướng bỉnh, ngang tàng của một con người yêu khát vọng cuộc đời tự do.

Đây cũng chính là nét đẹp trong tâm hồn chàng trai lao động miền núi mà Tô Hoài đã phát hiện và trân quý. A Phủ sống giữa núi rừng, anh nghèo không thể nói nổi vợ nhưng vẫn có đời sống phóng khoáng hồn nhiên yêu đời. A Phủ là một người khao khát tự do đến mức dù mệt và đói nhưng khi được bị cởi trói thì A Phủ cũng vùng thoát chạy đi. Dẫu trong đêm tối họ chưa biết đi đâu nhưng thoát khỏi nhà thống lý nghĩa là đã giải thoát được địa ngục trần gian.

Nhân vật A Phủ đã được Tô Hoài khắc họa thành công với sở trường quan sát nhạy bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người. Đây là hai yếu tố giúp nhà văn dựng được một hình tượng đặc sắc khi chỉ vài nét đơn giản. Thông qua A Phủ giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm càng được tô thêm đậm nét.

Nhân vật A Phủ trở thành biểu tượng trong quá trình giác ngộ, cho sự đấu tranh mạnh mẽ của những người nông dân miền núi.
 

Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện Vợ chồng A Phủ - Bài làm 3

Vợ chồng A Phủ là một trong những tác phẩm tiêu biểu khi nhà văn Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm này rất đặc sắc sau đó đã được dựng thành phim và được đông đảo khán giả đón nhận. Cùng với đó là những nhân vật ở trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, đã trở thành những nhân vật điển hình. Trong đó nổi bật lên là hình tượng A Phủ và mang những vẻ đẹp của người Tây Bắc và bản lĩnh dám vượt lên số phận.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài mở đầu khi giới thiệu nhân nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về và có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa và cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi và thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên và cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Và từ một hình ảnh đó đã để rồi khi liên kết xâu chuỗi với nhau, nhà văn làm nổi bật được hình tượng nhân vật trong tác phẩm, mà chính hình ảnh này cũng khiến cho Nhân vật A phủ và Mị có duyên gặp nhau.

A Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh mà thật oái oăm và A Phủ đã xô xát đánh nhau với A Sử, con trai của thống lí Pá Tra, và chính vì điều này thì A Phủ mới bị bắt về bị đánh đập tàn nhẫn. Sau tình huống này nhà văn mới bắt đầu giới thiệu về hoàn cảnh của A Phủ và chàng là người nghèo khổ, mất hết cả cha lẫn mẹ và sống kiếp mồ côi không ai chăm sóc. Và trớ trêu hơn khi người làng đói đã bắt A Phủ xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng. Nhưng không cam chịu với số Phận và A Phủ 10 tuổi đã một mình kiếm sống, học hỏi nhiều nghề để phụ trợ cho bản thân. Từ khi còn bé và với số phận chua xót, A Phủ đã biết vượt lên và chống chọi với số phận chứ không để số phận khiến anh có một số phận trớ trêu được . Sức sống tiềm tàng của A Phủ một người đã sớm được bộc lộ và không chỉ khi nhỏ mà khi lớn lên, A Phủ là một chàng thanh niên nổi bật và hiền lành và chăm chỉ lao động. Không những thế, A Phủ dưới lời miêu tả của nhà văn Tô Hoài là một người có sức khỏe hơn người.

A Phủ còn là một con người có đời sống phóng khoáng và yêu đời và chính nghĩa, bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình mà dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ đã vẫn quyết làm điều đó. Ta thấy ở đây A Phủ là một con người liều lĩnh và chí khí.

Hơn vậy là chính vì lối sống phóng khoáng, sức khỏe hơn người nên anh có nhiều người để ý. Nhiều cô gái lấy làm yêu quý A Phủ nhưng vì tập tục cưới khắc nghiệt nên ở xã hội phong kiến miền núi đương thời và A Phủ bị người ta khinh thường với một lí do nữa, A Phủ làm sao có đủ tiền mà hỏi và cưới vợ.

Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ đã trở thành nô lệ cho nhà thống lí, và với bản năng của mình thì A Phủ không than, không van xin lấy một lời, A Phủ không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn và mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. “Cứ như thế, suốt chiều nhiều ngày, càng hút, càng tỉnh và càng đánh, càng chửi và càng hút”. Những câu văn rất chân thực để miêu tả lại về cảnh xử kiện độc đáo ấy và có đến vài lần nhà văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ và ông còn sử dụng những câu văn mang tính chất liệt kê và phép lặp cú pháp để nhấn mạnh những tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với những người dân ở miền núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống trị. Bị phạt vạ và A Phủ thành người ở không công quần quật với hàng nghìni công việc. A Phủ có thể đốt rừng và cày nương, vỡ nương, săn bò tót và bẫy hổ, chăn bò và chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng và có những khi đói rừng, hổ gấu thường tìm đến các đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ đã phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa và áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ đã chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình và có nhà, hơn nữa, anh đã gây nên tội thì cũng phải chịu phạt. Nhưng khi có một vụ việc xảy ra đó là khi hổ vồ mất bò và A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng thì anh đành phải tự tay đóng cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình lại . Ở trong nhà thống lí Pá Tra và sinh mạng anh đúng là đã bị coi thường và anh phải thế mạng cho một con bò đã bị hổ ăn thịt. Và giọt nước mắt trên hõm má đã xám đen lại của anh đã là giọt nước mắt của sự đắng cay và sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng.

Tuy nhiên vậy chúng ta thấy được ở A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh mẽ và nó được nuôi dưỡng từ khi còn bé cơ cực. Anh phải chịu đánh trong lúc xử kiện vì anh đã gây ra tội nhưng khi anh đánh mất bò thì anh sẵn sàng muốn lấy công chuộc tội và anh tin rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai và nhưng đêm đến anh đã cúi xuống nhay đứt hai vòng dây mây và anh tìm cách để tự giải thoát mình. Cùng lúc đó khi được Mị cứu và lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị đói khát và đau đớn. Nhưng vì cái chết sẽ có thể đến ngay , anh đã quật sức vùng dậy chạy để thoát khỏi xiềng xích nhà thống lí và thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ thì A Phủ đã để cho Mị đi theo và anh không những cứu được mình mà còn cứu được cả Mị.

Sau khi vượt khỏi nhà thống lí thì A Phủ đã tìm tới vùng đất mới để sinh sống. Ở đây, anh cũng đã như nhiều người dân khác phải chịu cuộc sống vô cùng khổ cực do sự áp bức của những bọn thực dân phong kiến nhưng khi gặp được cán bộ cách mạng, anh nhanh chóng trở thành một người cách mạng, một đội trưởng du kích dũng cảm và là người tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc. Hình ảnh khi A Phủ giác ngộ thì được chân lí cách mạng là một hình ảnh đẹp và không chỉ A Phủ mà là hiện thân cho những con người ở Tây Bắc.

Bằng ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, nhà văn Tô Hoài đã làm nổi bật được hình tượng và khí phách của A Phủ – nhân vật điển hình trong truyện. Cùng là với A Phủ là Mị và dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc và họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.
 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây