Phân tích người đàn bà hàng chài trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa - Bài làm 1
Người nghệ sĩ vốn là người cả đời đi tìm kiếm cái đẹp, cái toàn mỹ và toàn diện. Thế nhưng không phải bất cứ vẻ đẹp nào cũng đơn giản mà có thể nó còn ẩn chứa những sự thật không hoàn mỹ ở bên trong. Câu chuyện về người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã cho chúng ta thấy cái nhìn vô cùng sâu sắc về bản chất cuộc sống, cái nhìn sâu hơn về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời. Một bức tranh có thuyền và biển “toàn bích” nhưng lại chứa chất trong đó là số phận vô cùng đau khổ của người lao động nghèo mà điển hình là hình ảnh của người đàn bà hàng chài. Từ đó, ta có thể cảm nhận được những giá trị về tính nhân đạo sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm.
Chiếc thuyền ngoài xa là câu chuyện về người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trong một chuyến công tác đi tìm kiếm một bức ảnh cho bìa của cuốn lịch mới. Trong chuyến đi đó, anh đã chọn chiến trường cũ của mình là nơi tìm kiếm nguồn cảm hứng và quả thực, anh đã cho ra một bức ảnh để đời, một bức ảnh với vẻ đẹp thực sự “đơn giản và toàn bích”. Thế nhưng, lúc anh vốn tưởng rằng mình đã có thể “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện” thì xuất hiện một cảnh bạo lực gia đình, người chồng đánh đập vợ một cách tàn nhẫn đã diễn ra ở ngay trước mắt anh, mà đôi vợ chồng ấy lại chính là những người bước ra từ chính con thuyền đẹp đẽ ban nãy. Phùng đã vô cùng kinh nhiên khi người vợ, người đàn bà hàng chài đó không một chút phản kháng, chị để mặc cho lão chồng đánh mình trong sự giận dữ vô cùng. Có lẽ lúc ấy, Phùng cũng tự hỏi như chúng ta, người đàn bà hàng chài ấy là người ra sao? Tại sao lại phải cam chịu trận đòn roi ấy một cách nhẫn nhịn như vậy?
Người đàn bà hiện lên trong tác phẩm qua lời giới thiệu của nhân vật Phùng. Đọc đến hết câu chuyện, người ta vẫn chẳng biết cái tên người đàn bà ấy. Nếu như những nhân vật khác, họ đều mang cho mình một cái tên rõ ràng để xưng hô hoặc để gọi như là Đẩu hoặc như thằng Phác,… thì người đàn bà ấy ấy lại chỉ được gọi với một cái tên phiếm là “người đàn bà hàng chài” hay “mụ”. Kể cả khi mụ ta tới toà án huyện, gặp chánh án Đẩu, ta cũng không tài nào biết tên mụ là gì. Bởi phải chăng mụ chỉ là đại diện, là hiện thân cho rất nhiều những số phận đàn bà từ những vùng biển khác nhau, cũng cơ cực, vất vả như thế, cũng vô danh và cũng phải sống cuộc sống khắc nghiệt và thống khổ như vậy?
Người đàn bà ấy thông qua lời kể của nhân vật Phùng trở nên vô cùng ấn tượng, không phải vì vẻ đẹp mà bởi sự xấu xí, thô kệch và không hề ưa nhìn. Đó là người đàn bà được miêu tả “xấu, rỗ mặt” lại mang một “thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch”. Không những thế, ở mụ, người ta cảm thấy được một sự lam lũ, dáng vẻ vô cùng kham khổ của một người phụ nữ nhà quê thông qua hình ảnh “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ” cùng với “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới”. Sự thống khổ ấy còn thể hiện lúc mụ đến toà án huyện cùng với sự “lúng túng và sợ sệt” và “tìm đến một góc tường để ngồi”, dáng vẻ đó là dáng vẻ của một người mang đầy sự mặc cảm và tự ti. Thậm chí khi nhân vật Đẩu mời mụ ta ngồi vào ghế, mụ vẫn phải “rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”. Dáng vẻ của mụ ta thật khiến cho người ta phải cảm thấy tội nghiệp, thương cảm làm sao! Tạo hoá dường như đã trút đi hết những bất hạnh trong cuộc đời lên người của mụ, từ ngoại hình vô cùng xấu xí, đến sự nghèo khổ và đến số phận thực sự đau đớn.
Đọc từng câu từ một, người ta thấy ở đây là niềm thương cảm vô cùng sâu sắc mà nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm. Ông đã cảm thông, thấu hiểu và thương xót cho số phận thực sự bất hạnh của người đàn bà đó. Thế nhưng, không chỉ dừng lại ở sự thương cảm về ngoại hình, ông còn đi sâu vào khám phá thêm cuộc sống và số phận của người đàn bà đó, để dành sự thương cảm cho số phận con người. Và quả thật, số phận và cuộc đời của người đàn bà đó tràn đầy những nỗi đau khổ và bất hạnh đến tận cùng!
Người đàn bà hàng chài vốn được sinh ra ở trong một gia đình khá giả, thế nhưng do “một bận lên đậu mùa” mà mụ đã bị “rỗ mặt”. Vừa xấu xí lại vừa rỗ mặt khiến cho mụ bị xa lánh, “không ai trên phố lấy” để sau đó mụ “có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá”. Tạo hoá đã đưa đẩy cuộc đời của mụ từ những bất hạnh này qua bất hạnh khác, thế nhưng, bất hạnh mới thực sự bắt đầu khi mụ đi lấy chồng!
Cuộc sống của một người đàn bà làm nghề chài lưới, quanh năm suốt tháng chỉ lênh đênh trên biển thế nhưng lại chưa có một ngày nào được no đủ. Quanh năm, mụ chỉ có nỗi lo về cơm ăn cho đám con nheo nhóc. Lam lũ và khổ cực như thế, nhưng cái đói và cái nghèo vẫn đeo bám mụ từng ngày khiến cho mụ không dám rời xa con thuyền kia để “lên bờ” mà sống, bởi “không bỏ nghề được”, bỏ nghề thì sẽ không có cái gì để ăn. Cuộc sống lênh đênh trên biển cũng khiến cho cuộc sống của gia đình mụ trở nên bấp bênh đến độ, có khi “ông trời làm động biển suốt háng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Có còn cái đói, cái nghèo nào đến mức ấy hay không, khi mà chiến tranh đã thực sự qua đi, và dù rằng, người đàn bà ấy phải thức trắng suốt đêm, phải làm lụng vô cùng vất vả mỗi ngày?
Đói nghèo đã làm khổ, cơ cực đủ điều, thế nhưng sự mệt mỏi về thể xác chẳng thể nào đau đớn được bằng những trận đòn roi tàn nhẫn đến từ người chồng. Dường như mụ ngày nào cũng phải chịu cảnh hành hạ tinh thần đau đớn ấy “ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ”, thế nhưng lại chẳng thể nào phản kháng, đổi lại chỉ còn có sự cam chịu, nhẫn nhìn đến tận cùng.
Nguyễn Minh Châu đã thể hiện lên sự thương xót vô cùng với số phận của người đàn bà hàng chài. Sự nghèo túng và gánh nặng về cơm áo gạo tiền đã khiến cho mụ rơi vào vòng lặp của sự bất hạnh. Từ hình ảnh của người đàn bà đó, tác giả còn muốn thể hiện với người đọc những trăn trở của mình trong công cuộc chiến đấu chống lại cái đói và cái nghèo. Cũng giống như lũ giặc ngoại xâm, “giặc đói, giặc dốt” cũng là gây nên một cuộc chiến mà luôn cần chúng ta đánh đuổi. Bởi còn đói và còn nghèo thì cái xấu và cái ác vẫn sẽ còn phải tiếp diễn.
Qua từng trang văn học của Việt Nam, người ta vẫn nhìn thấy ánh lên được ở mỗi người phụ nữ một vẻ đẹp tâm hồn vô cùng cao cả và ở người phụ nữ hàng chài ấy, Nguyễn Minh Châu đã làm cho vẻ đẹp trong tâm hồn ấy được thăng hoa một cách tuyệt vời, hoàn toàn đối lập với vẻ ngoài hết đỗi rách rưới và khổ sở của mụ. Có thể nói rằng, vẻ đẹp khuất lấp phía sau người đàn bà ấy được thể hiện trong mọi khía cạnh, trong mọi mặt mà trước tiên là vẻ đẹp thuộc về một người phụ nữ đã từng trải, vô cùng sâu sắc, thấu hiểu và hết sức bao dung.
Nếu như nhân vật Phùng và Đẩu thấy bất bình trước sự tàn ác của người chồng thì những lời lẽ của người đàn bà hàng chài ấy lại khiến những người đã từng “vào sinh ra tử”, những trí thức như họ biến thành những người đàn ông có sự nông nổi và hời hợt vô cùng.
Mụ đã kể cho Phùng và Đẩu nghe về câu chuyện của cuộc đời mình, cho họ biết được lý do tại sao mà mụ lại cam chịu sự vũ phu từ người chồng của mình. Bởi mụ hiểu rõ mọi thứ đều do hoàn cảnh ép buộc và xô đẩy cuộc đời của họ đến bước đường như ngày hôm nay. Nếu ngày xưa, chồng của chị là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập” nhưng do cuộc sống đưa đẩy, cái vòng luẩn quẩn lặp đi lặp lại của đói nghèo, đông con “giá như tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”, đã đẩy hắn trở thành một người đàn ông tha hoá, hoá thành một kẻ vũ phu và tàn nhẫn. Chắc hẳn, người đàn bà đó phải là người thực sự thấu đáo, suy xét cẩn trọng mới có thể hiểu được lẽ đời thay đổi như thế!
Và người đàn bà cũng chỉ rõ ra cho Đẩu và Phùng thấy được sự thiếu thực tế của họ rằng khi làm nghề chài lưới, cần phải có người đàn ông “để chèo chống khi phong ba, để làm ăn nuôi nấng một đặng sắp con”, “là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Người đàn bà đó đã chỉ ra được những khó khăn và cơ cực của người phụ nữ trong cuộc sống mưu sinh trên biển, khi mà những hiểm hoạ luôn rình rập và tiềm ẩn. Mụ cũng nhận thức được rằng “từ ngày cách mạng về đỡ đói khố” thế nhưng những bất cập vẫn còn đó mà chính quyền chưa thể giải quyết được, đó là việc cấp đất cho dân chài nhưng vẫn “chẳng ai ở vì không bỏ nghề được”. Đến lúc ấy, Đẩu và Phùng mới chợt “vỡ ra” được nhiều điều, có giải pháp và sự thiện chí của họ thực sự phi thực tế, và họ có lẽ đã thấy cảm phục người đàn bà tuy nhà quê nhưng lại thực sự thấu hiểu cuộc đời, thấu hiểu được con người tới nhường ấy!
Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài không chỉ được thể hiện ở sự hiểu thấu về cuộc đời mà còn ở trong tấm lòng nhân hậu, sự bao dung cùng tình mẫu tử thiêng liêng. Người đàn bà ấy mỗi ngày đều phải chịu những trận đòn roi tàn nhẫn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” của người chồng không phải do ngu muội, cũng không dám phản kháng, cũng không phải mụ đã từng gây ra tội tình gì mà là do mụ muốn để người chồng của mình được giải toả tất cả những khó chịu, những dồn nén chứa đựng trong lòng. Mụ đã hy sinh thân mình để cho ngày mai, vợ chồng của mụ lại trở về chiếc thuyền, lại bắt đầu một cuộc sống mưu sinh tràn đầy những cơ cực. Cách xử sự của người đàn bà đó khiến cho độc giả chúng ta không chỉ cảm thấy thương xót mà còn thực sự cảm phục nữa. Bởi đó cũng là cách xử sự của một những người hiểu rõ về bổn phận và trách nhiệm của mình, từ đó cố gắng thực hiện nó cho dù nó có phi lý và đau đớn đến nhường nào.
Nếu như Đẩu và Phùng thấy bất bình trước những trận đòn dã man của người đàn ông cho vợ “cả nước không có một người chồng nào như hắn” thì người đàn bà hàng chài ấy lại chẳng hề trách móc người chồng của mình. Mụ nhận hết tất cả lỗi lầm về bản thân mình “giá như tôi đẻ ít đi”, “cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá”, “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Dường như tất cả những tội lỗi đều thuộc về người đàn bà ấy, mọi khó khăn đều từ chính mụ ta, thế nên, mụ chưa từng có một lời than trách người chồng của mình và luôn miệng van xin “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đọc đến đây, chúng ta không thể không xúc động, cảm phục trước tấm lòng vị tha và nhân hậu của người đàn bà hàng chài xấu xí đó. Ẩn chứa bên trong vẻ ngoài xấu xí ấy, lại là một nhân cách vô cùng cao cả!
Tình mẫu tử vốn là một thiên tính thuộc về người phụ nữ, và người đàn bà ấy cũng như vậy, mụ yêu thương các con của mình vô cùng. Sự yêu thương đó chính là lý do giúp mụ cam chịu được những trận đòn roi vô cùng man rợ bởi mụ cần có người đàn ông để sát cánh với mình “nuôi đặng một sắp con”. Và cũng vì quá thương con, sợ con phải chịu tổn thương tinh thần vì chứng kiến cảnh bạo lực gia đình mà mụ đã xin chồng đưa mình vào bờ để đánh “sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được lão đưa tôi lên bờ mà đánh”. Có người phụ nữ nào có tình mẫu tử hơn thế nữa, nhận hết mọi đau khổ về mình “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở đất được”, chỉ mong rằng đàn con được sống cuộc sống hạnh phúc, ăn no mà khôn lớn. Và cũng vì sợ thằng con có suy nghĩ dại dột với bố mà chị đã cắn răng đưa nó lên bờ cho ông ngoại nuôi nấng cho dù đó là đứa con mà chị yêu thương nhất trong cuộc đời mình. Tình thương con của người mẹ đó chưa từng một lần được thể hiện một cách trực tiếp nhưng luôn diễn ra âm thầm. Khi đứa con phải chứng kiến cảnh bạo lực ấy, người đàn bà đã vô cùng đau đớn và xấu hổ biết nhường nào, “người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa xấu hổ, nhục nhã”. Mụ ôm lấy con mình trong nước mặt “mếu máo, ôm chầm lấy nó” rồi lại “vái lấy vái để”. Cuộc đời của mụ có lẽ chỉ dành cho những đứa con, mụ chỉ cảm thấy đau đớn khi làm tổn thương con cái của mình chứ chưa từng cảm thấy đau đớn cho chính bản thân mình.
Chính chúng ta cũng phải tự hỏi rằng, một cuộc sống như người đàn bà đó, liệu có khi nào thấy hạnh phúc hay chưa? Câu trả lời là có! Và có lẽ khoảnh khắc để mụ cảm thấy hạnh phúc nhất đời chính là khi “ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no” và cảnh gia đình hòa thuận. Đó là khoảnh khắc mà trên gương mặt xấu xí của mụ “lần đầu tiên, chợt bừng sáng lên như một nụ cười”. Tất cả là vẻ đẹp, là tình mẫu từ thiêng liêng, yêu thương con hết mình và sống vì con. Người đàn bà đó cũng như vô vàn những người phụ nữ khác trên đất nước Việt Nam, luôn bao dung, nhân hậu và vị tha, giỏi kiên cường chịu đựng và hy sinh cho con cái.
Hình ảnh về người đàn bà cũng để lại một ấn tượng hết sức sâu đậm trong lòng nghệ sĩ Phùng và cả trong lòng độc giả chúng ta. Những nét khắc họa từ ngoại hình bên ngoài đến hành động và lời nói,… đều khiến cho người đàn bà hàng chài ấy trở thành một biểu tượng cho những người phụ nữ vùng biển cả đáng thương. Và hình tượng của người đàn bà đó đã giúp Nguyễn Minh Châu thể hiện được tư tưởng nhân đạo vô cùng sâu sắc của mình. Đó là sự thương cảm, sự thấu hiểu dành cho những số phận thực sự bất hạnh do nghèo đói và bạo lực bủa vây, nhưng ở họ, vẫn được soi sáng bằng những phẩm chất vô cùng tốt đẹp, nhân hậu và vị tha.
Phân tích người đàn bà hàng chài trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa - Bài làm 2
Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Như lời đánh giá của nhà văn Nguyễn Khải “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Ông đã để cho lớp người đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên “Chiếc thuyền ngoài xa” với nguồn cảm hứng vô tận và những bài học từ cuộc sống. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông chính là người đàn bà hàng chài đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trăn trở về những câu chuyện đời.
Sau những bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ, lộng lẫy mà đôi mắt của nhà nhiếp ảnh Phùng đã được dịp bắt gặp nhân dịp chuyến đi công tác ở vùng biển. Thế nhưng, phía sau những ánh sáng chói lòa, lung linh ấy là những góc khuất mà con người bỏ lỡ. Hình ảnh của người đàn bà hiện lên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Đó là một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi, tác giả cũng chẳng biết tên tuổi mà đặt một ngôi “mụ”, “người đàn bà hàng chài” như để ám chỉ nơi đây, có biết bao nhiêu người phụ nữ cũng có chung hoàn cảnh như mụ.
Sau vài nét gợi tả, hình ảnh của người đàn bà với “một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Chắc hẳn, những vết rỗ khuôn mặt mụ đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão miền biển hẳn lên trên khuôn mặt ấy. Một người lao động lam lũ, chịu thương chịu khó nhưng cái nghèo vẫn bủa vây lấy gia đình của mụ. Sự nghèo khổ ấy còn hiện lên trên “tấm áo bạc phếch có miếng vá, bửa thân dưới ướt sũng”. Từ cách hành xử, đi đứng đến “tìm đến một góc tường để ngồi” càng làm cho mụ trở nên đáng thương đến tội nghiệp. Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương mênh mông, nhưng lại trở nên tự ti, mặc cảm khi đối diện với con người.
Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả đã lột tả thật sâu sắc, chân thật cả những tính cách con người mụ. Một người đàn bà, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu điển hình trong xã hội Việt Nam. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người đàn bà ấy, đến một người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng, người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, mắng nhiếc. Đôi mắt của chị hắt lên một con đường tối đen không tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có lẽ, mụ đã quá quen và chấp nhận cuộc đời của mụ sẽ phải chịu đựng cảnh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
Những đau đớn về thể xác của chị chẳng thể nào sánh với những nỗi đau đớn, giày vò về tinh thần khi chị lo lắng cho con cái sẽ bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đau đớn ấy. Thằng con trai của chị thương mẹ, lăm lăm con dao trong tay nhưng người mẹ ấy đã “chấp tay vái mấy đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái thường đạo lí”. Tuy nghèo, tuy khổ nhưng chị vẫn biết đạo lí trong đời, chị không muốn con của chị phải đi theo những vết xe đổ nghèo hèn mà cuộc đời bố mẹ nó đang phải trải qua. Lòng chị cũng đau đớn, buồn tủi vô cùng khi cái nghèo đẩy cả gia đình chị vào cái vòng quẩn quanh nghèo đói. Những ngày tháng ăn xương rồng luộc chấm muối, bữa đói bữa no vẫn luôn hiện hữu, thường trực trên chiếc thuyền chật chội, mục nát của gia đình chị.
Tưởng chừng với dáng người thô kệch ấy sẽ chẳng biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với những điều mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người đàn bà ấy càng trở nên sâu sắc. Khi bị đưa về tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn ấy nhưng chị đã xin quan tòa rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đến tận cùng nỗi đau, khi đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ. Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột ấy. Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy. Chị vẫn luôn dành cho chồng những lời ngợi khen, chị biết chồng chị là người hiền lành cục tính, nhưng cái nghèo đã khiến anh ta trở thành một con người vũ phu, cộc cằn.
Hình ảnh của người đàn ông cũng có biết bao điểm chung như những nhân vật Chí Phèo của Nam Cao hay nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa vậy. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ rằng: thân gái dặm trường, họ cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Dù cho họ có vũ phu, cộc cằn đến nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghị, họ không có quyền đòi hỏi một người đàn ông giàu sang, có học vấn.
Trong khi đường lối của Đảng trước và sau cách mạng luôn hướng tới bảo vệ nhân quyền cho mọi người, giúp cho nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thế nhưng, tại nơi đây những con người lênh đênh trên bốn bể là nước, họ vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho một người phụ nữ.
Đằng sau việc trọng tình nghĩa với người chồng của chị, tình mẫu tử cũng của chị cũng thật đáng ngưỡng mộ. Sợ con tổn thương mà chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, niềm vui của chị thật giản đơn khi “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no”. Những đứa con là ngọn nguồn sức mạnh để chị sống và tồn tại. Ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình thương con, chị chấp nhận hi sinh cuộc đời chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên hơn. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà làng chài là những đức tính của biết bao người phụ nữ Việt Nam luôn yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người đàn bà trong truyện mà người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại. Tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui chột.
Phân tích người đàn bà hàng chài trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa - Bài làm 3
Chiếc thuyền ngoài xa đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Người phụ nữ bất hạnh ấy đã để lại cho người đọc một niềm cảm thông và trân trọng sâu sắc bởi những phẩm chất đáng quý của bà.
Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.
Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Phùng bên cạnh nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật lên phẩm chất đáng quý của người đàn bà ấy. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc. Đọc hết câu truyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy là ai, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta… Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chi mình người đàn bà đó gặp bất hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những bất hạnh như thị. Tác giả đã dùng những ngôn từ rất đắt giá để miêu tả về người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.
Người đàn bà bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình mà tạo hóa mang lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho chị.