Vũ Trọng Phụng sinh năm 1912, tại Hà Nội trong một gia đình "nghèo gia truyền”, theo cách nói của Ngô Tất Tố Khác xa với sự hình dung của nhiều độc giả, "ông là một người bình dị người của khuôn phép, của nền nếp" (Lưu Trọng Lư).
Vũ Trọng Phụng suốt đời nung nấu nỗi căm hờn sôi sục xã hội thối nát đương thời. Điều này góp phần quan trọng tạo nên sức hấp dẫn độc đáo trong toàn bộ sự nghiệp sáng tạo của nhà văn. Ông là người chăm học và có sức sáng tạo phi thường, không đầy 10 năm cầm bút (1930 - 1939), nhà văn đã cho ra đời một khối lượng tác phẩm phong phú gồm nhiều thể loại: kịch, truyện ngắn, phóng sự và tiểu thuyết; ông mất khi mới 27 tuổi.
Sự nghiệp sáng tác và thế giới quan của tác giả khá phức tạp và nhiều khi mâu thuẫn. Điều đó, cùng với một số yếu tố khác khiến cho việc đánh giá nhà văn có lúc không đơn giản, đã từng làm gây ra những cuộc tranh luận khá gay gắt. Song đến nay, trong dư luận rộng rãi, vị trí quan trọng của Vũ Trọng Phụng đối với tiến trình lịch sử văn học Việt Nam hiện đại đã được giới nghiên cứu nhất trí khẳng định.
Số đỏ được đăng trên Hà Nội báo từ số 40 (ngày 7/10/1936). Đây là năm đầu của thời kì Mặt trận dân chủ Đông Dương, không khí đấu tranh dân chủ sôi nổi. Chế độ kiểm duyệt sách báo của thực dân phải tạm thời bãi bỏ. Bối cảnh ấy đã tạo điều kiện cho nhà văn phát huy cao độ những mặt tích cực, đạt được những thành tựu rực rỡ.
Số đỏ là tác phẩm tiêu biểu nhất của Vũ Trọng Phụng, và được đánh giá vào loại xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam, kể từ khi có chữ quốc ngữ Thông qua tác phẩm này, "nhà văn đả kích sâu cay cái xã hội tư sản thành thị đang chạy theo lối sống nhố nhăng đồi bại đương thời"
Dùng tiếng cười làm vũ khí, Số đỏ vạch ra thực chất thối nát của các phong trào "Âu hoá", "thể thao", "vui vẻ trẻ trung"... được bọn thống trị khuyến khích và lợi dụng, từng lên cơn sốt vào những năm 30. Vũ Trọng Phụng đã ném ra hàng loạt nhân vật đĩ "tiên phong" trong các phong trào nói trên như Xuân Tóc Đỏ, vợ chồng Văn Minh, bà Phó Đoan, TYPN... Chúng tự phong là những nhà "cải cách xã hội", nhưng thực chất, chỉ là một lũ dâm ô, đểu giả và nhất là bịp bợm. Những danh từ văn minh, tiến bộ chúng ném ra chỉ là những lời lẽ ba hoa rỗng tuếch.
Thành công trội nhất của Số đỏ là đã xây dựng được một loạt chân dung biếm họa xuất sắc. Ấy là thằng Xuân ma-cà-bồng đã từng thối kèn loa thuốc lậu, cầm cờ chạy hiệu ở rạp hát... bỗng chốc nhờ cái dâm vào bà Phó Đoan, mà được gia nhập vào thế giới thượng lưu. Là một đứa láu lỉnh, quen biến báo, Xuân biết phần nào lợi dụng thời cơ đó để tiến thân. Nó đã đi từ "vinh quang" này đến "chiến thắng" khác, một cách dễ dàng. Một thằng ma-cà-bông mà được phong tặng bao danh hiệu: "sinh viên trường thuốc", "nhà thơ", "triết gia", "danh thủ quần vợt", cố vấn cho báo gõ mõ của sư Tăng Phú, nhà cải cách xã hội, "anh hùng cứu quốc".
Bản chất xấu xa, và quá khứ đê tiện của Xuân không bị lộ tẩy, bởi nó ngoi lên từ một xã hội rất cần đến những tính cách như nó.
Nhân vật Xuân Tóc Đỏ thoạt xem, tưởng như được viết ra một cách hết sức tuỳ tiện - tuỳ tiện đến vô lý. Vậy mà ngẫm ra, tác giả không hề vu oan cho ai cả? Nghĩa là trong xã hội cũ, té ra không thiếu gì những thằng Xuân. Đó là một nhân vật điển hình hiện thực chủ nghĩa xuất sắc. Có thể nói, chừng nào xã hội còn dựa trên "nguyên tắc" của sự bịp bợm, còn cổ vũ cái dâm, cái đểu, còn khuyến khích chủ nghĩa cơ hội và các thứ đồ rởm thì ắt sẽ còn nhiều Xuân Tóc Đỏ...
Châu tuấn xung quanh thằng Xuân là một loạt nhân vật biếm hoạ khác mỗi người một vẻ: bà Phó Đoan to béo "thủ tiết với hai đời chồng", được tặng bằng "Tiết hạnh khả phong"; ông chủ tiệm may Âu hoá Vân Minh gầy còm, luôn hô hào thể thao thể dục mà không hề tập thể dục bao giờ; nhà thiết kế mỹ thuật thời trang TYPN từng chế ra những y phục phụ nữ rất táo bạo: "Dậy thì", "Ngừng tay", "Ỡm ờ"..v.v.. nhưng lại mắng vợ là đồ đĩ vì thích ăn mặc tân thời; cụ cố Hồng không biết gì cả, nhưng động mở miệng là: "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!"; những thầy cảnh sát Minđơ, Mintoa lấy làm đau khổ vì không ai chịu đái bậy để biên phạt; là sư ông Tăng Phú từng khoe thắng một vụ kiện khiến đối thủ phải hộc máu mồm, là ông Phán mọc sừng thuê tiền người khác để gọi mình là ông chồng mọc sừng.v.v... Có thể nói tác giả Số đỏ đã bao quát hầu như toàn bộ xã hội thành thị ngày trước vào trong ống kính quan sát của mình - một xã hội nhốn nháo, nhố nhăng, trong đó mỗi nhân vật là một vai hề.
Bộ mặt và tính cách hài hước của các nhân vật trên đây được nhà văn làm cho bật nổi bằng cách đặt chúng vào những tình huống trào phúng. Đây cũng là một phương tiện của tài năng sáng tạo của tác giả Số đỏ. Có thể nói mỗi chương sách là một tình huống trào phúng xây dựng trên một mâu thuẫn nực cười.
Trong số những chương sách đặc sắc nhất, phải kể đến chương Hạnh phúc của một tang gia (Chương XV). Ở chương này, mâu thuẫn trào phúng thể hiện ngay ở đầu đề của nó: tang gia mà lại hạnh phúc, có người chết mà vui như hội. Đúng là hạnh phúc của một gia đình vô phúc, niềm vui của một lũ con cháu đại bất hiếu. Người ta thường nói "tang gia bối rối", tác giả đã dựng lên đúng cái cảnh bối rối của gia đình cụ cố Hồng khi cụ tổ nằm xuống. Chẳng những bối rối mà còn lo lắng nữa và tất nhiên là hết sức bận rộn. Nhưng lo lắng bận rộn để tổ chức cho chu đáo, cho thật linh đình một ngày vui, một đám hội chứ không phải một đám ma.
Niềm vui lớn nhất, chung cho cả các đại gia đình bất hiếu này là tờ di chúc của cụ tổ thế là đã tới lúc được thực hiện. Nghĩa là khi cụ quy tiên thì cái gia tài kếch xù của cụ mới được chia cho con và cháu, dâu và rể... Tình huống này đã làm bộc lộ không biết bao nhiêu mâu thuẫn trào phúng khác đủ loại và làm đậm nét hàng loạt chân dung hài hước.
Nghệ thuật gây cười của Vũ Trọng Phụng thật là phong phú. Trong niềm vui chung kia, mỗi người lại có một niềm vui riêng không ai giống ai.
Cụ cố Hồng tuy mới 50 tuổi nhưng lâu nay chỉ mơ ước được gọi là cụ cố. Nạy được "mặc áo xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu" diễn trò già nua ốm yếu giữa phố đông người để cho thiên hạ phải trầm trồ: "úi chà, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!".
Văn Minh chồng và vợ và ông TYNN nhà cửa cách y phục Âu hoá thì được dịp lăng xê những mốt tang phục táo bạo nhất. "Có thể ban cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời”.
Cô Tuyết thì được dịp "mặc bộ y phục Ngây thơ - cái áo dài voan mỏng, trong có coóc xê, trông như hở cả nách và nửa vú - nhưng mà viền đen và đội một cái mũ mấn xinh xinh", đồng thời lại có cơ hội để gò lấy "một vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt"
Cậu Tú Tân thì sứổng điên người vì điíợc dùng đến cái máy ảnh mới mua.
Ông Phán mọc sừng thì sung sướng vì không ngờ rằng cái sừng trên đâu mình lại có giá trị đến thế và tất sẽ được trả công xứng đáng. (Ông cụ tổ sở dĩ lăn đùng ra và cấm khẩu vì biết tin con rể mọc sừng).
Xuân Tóc Đỏ thì danh giá uy tín càng to thêm vì chính nhờ hắn mà cụ tổ chết (tố cáo ông Phán mọc sừng trước mặt cụ tổ).
Hạnh phúc còn lây lan ra cả những người ở ngoài tang quyến hữu: cảnh sát Mindơ, Mintoa đang lúc thất nghiệp, được thuê giữ trật tự cho đám tang. Xã hội trưởng già bè bạn cô Hồng, cô Tuyết, ông bà Vân Minh được dịp khoe cái thứ huy chương, phẩm hàm, và các thứ râu ria trên mép, dưới cằm... và hàng phố thì được xem một đám ma to tát chưa từng có "đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy"...
Đoạn tả đám tang diễn từ nhà cụ cố Hồng ra đến huyệt cũng rất hài hước. Đám ma mà như đám rước vậy. Đủ cả kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu. Hàng trăm câu đối, vòng hoa, bức trướng. Người đi đưa đông đúc, sang trọng, nam nữ "chim nhau, cười tình vớí nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma"...
Tóm lại, đám tang diễn ra như một tấn đại hài kịch, nói lên sự lố lăng, vô đạo đức của cái xã hội thượng lưu ngày trước.
Vũ Trọng Phụng mất khi chưa đầy 30 tuổi. Nhà văn Ngô Tất Tố trước cái chết của Vũ Trọng Phụng, đã luận bàn về sự thọ yểu ở đời. Ông cho rằng đối với con người ta thọ yểu không tính bằng tuổi tác, mà tính bằng những gì đề lại mãi mãi cho đời. Nếu quan niệm như vậy thì Vũ Trọng Phụng là người rất thọ. Vì những tác phẩm của ông, đặc biệt là Số đỏ sẽ còn sống mãi với đời.