I. Tác giả, tác phẩm:
1.Tác giả:
- Tô Hoài là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết phong phú sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật đời thường. Theo ông: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”.
-Dấu ấn văn chương mà Tô Hoài để lại trong lòng độc giả là lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động với một vốn từ vựng giàu có, được sử dụng đắc địa và tài hoa.
2. Tác phẩm:
-“Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn trong tập “Truyện Tây Bắc”. Tác phẩm là kết quả chuyến đi Tây Bắc tám tháng của nhà văn Tô Hoài cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Qua việc tái hiện cuộc sống tủi nhục của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn phong kiến chúa đất, nhà văn bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc trước thân phận nô lệ của đồng bào miền núi; đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do mạnh mẽ trong tâm hồn họ.
II. Phân tích:
A. Nhân vật Mị:
1. Chân dung và số phận.
* Chân dung:
- Mị là cô con gái nhà nghèo nhưng xinh đẹp và tài hoa . Nhà văn không miêu tả cụ thể vẻ đẹp của Mị mà chỉ cần một chi tiết đậm tính phong tục của người dân miền núi Tây Bắc, người đọc cũng có thể hình dung được vẻ xinh tươi, cuốn hút của Mị: những đêm tình mùa xuân “trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Không chỉ xinh đẹp, Mị cũng rất tài hoa: Mị có tài thổi sáo: “Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”.
- Ở Mị còn hội tụ những phẩm chất tốt đẹp. Mị là một người con hiếu thảo, một cô gái giỏi giang và yêu đời. Với những vẻ đẹp đáng quý ấy, Mị có nhiều cơ hội để sống hạnh phúc.
* Thế nhưng Mị lại phải chịu một số phận bất hạnh. Nỗi bất hạnh bắt đầu từ khi Mị bị bắt làm “con dâu gạt nợ” của nhà thống lí Pá tra.
- Trong thân phận “con dâu gạt nợ”, Mị bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần:
+ Cuộc sống của Mị, thời gian được tính bằng công việc “mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế”. Mị trở thành một công cụ lao động, bị bóc lột hết sức nặng nề. Nói như nhà văn Thạch Lam, đó là cuộc sống mà “ngày nọ dệt ngày kia như một tấm vải thô”. Sống trong cuộc sống ấy, đôi khi Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa, có khi còn không bằng cả con trâu con ngựa bởi “con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”. Cách so sánh con người với con vật theo cấp độ tăng tiến, gieo vào lòng người đọc bao nỗi xót xa.
+ Không chỉ bị bóc lột sức lao động, Mị còn bị áp chế về mặt tinh thần. Nỗi ám ảnh đeo đẳng cuộc đời Mị là bị bắt về trình ma nhà thống lí Pá tra. Mị không bao giờ dám nghĩ đến việc trốn khỏi nhà thống lí bởi Mị nghĩ: “ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi…”. Suy nghĩ ấy chính là sợi dây trói vô hình của thần quyền hủ tục áp chế con người.
+Cuộc sống của Mị chẳng khác nào một tù nhân nơi ngục thất : “ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Hình ảnh ấy gợi không gian tù ngục, nơi giam cầm cuộc đời của Mị.
- Sống trong cảnh địa ngục trần gian, Mị dần dần tê liệt ý thức phản kháng, mất dần ý thức sống.
+ Khi mới về làm dâu có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Những giọt nước mắt buồn tủi, âm thầm trong bóng đêm. Sau đó, Mị về nhà quỳ lạy, khóc với bố để đi đến cái chết. Nhưng rồi trước nỗi lòng của bố, thương bố, Mị không đành lòng chết, “Mị ném nắm lá ngón xuống đất” như ném đi khát vọng giải thoát cuộc đời mình. Mị ngậm ngùi cay đắng quay trở lại nhà thống lí Pá tra, chấp nhận sống kiếp đời trâu, ngựa. Những phản ứng đi từ yếu ớt đến mạnh mẽ nói trên chính là biểu hiện của ý thức sống.
+ Khi thời gian làm dâu đã lâu, Mị sống âm thầm, cam chịu : “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Hình ảnh so sánh, biến kiếp người thành kiếp vật gợi lối sống thu mình, sợ hãi thật đáng thương. Nếu trước đây vì thương bố, Mị phải chấp nhận cuộc sống tủi nhục nhưng sau khi bố Mị mất, Mị cũng không còn có ý định tự tử nữa, bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Lời văn chua xót, chứa đựng một thái độ nhẫn nhục, cam chịu đến đau lòng.
- Có lẽ, ám ảnh người đọc nhất là những câu văn tả thực trầm buồn mở đầu tác phẩm: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Cuộc sống con người ở đây như gắn với loài vật, lẫn vào những vật vô tri, vô giác và ẩn sâu trong tâm hồn là những nỗi niềm u uẩn.
Như vậy, đời “con dâu gạt nợ” là một quãng đời thê thảm, tủi nhục. Qua thân phận bi kịch của Mị, nhà văn Tô Hoài không chỉ gián tiếp tố cáo sự áp bức, bóc lột của bọn phong kiến miền núi mà còn nói lên một sự thật đau xót: dưới ách thống trị của cường quyền bạo ngược và thần quyền hủ tục, người dân lao động miền núi Tây Bắc bị hủy diệt hoàn toàn về ý thức sống.
2. Sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do mạnh mẽ.
Tuy nhiên, ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài không chỉ đề cập đến mặt ảm đạm, đen tối của cuộc đời mà còn thiết tha hướng tới sự sống và ánh sáng. Bằng tiếng nói nghệ thuật riêng, nhà văn đã đi sâu vào tâm hồn Mị để phát hiện và khẳng định sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do mạnh mẽ. Sức sống ấy âm ỉ như một hòn than bị tro bụi phủ đầy, khi có ngoại cảnh tác động, nó sẽ bùng lên mạnh mẽ.
a. Trong đêm tình mùa xuân khát vọng sống trong Mị hồi sinh:
* Hoàn cảnh khơi gợi sức sống trong tâm hồn Mị là khi mùa xuân về trên vùng núi cao Tây Bắc và những đêm tình mùa xuân đã tới. Bằng sự am hiểu sâu sắc phong tục tập quán của người vùng cao Tây Bắc, Tô Hoài đã tái hiện một bức tranh xuân đặc sắc: “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ… Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”, “trai gái, trẻ con ra sân chơi tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy”... Khung cảnh mùa xuân vui tươi tràn đầy sức sống với những sắc màu rực rỡ và âm thanh rộn ràng đã đánh thức tâm hồn Mị làm hồi sinh sức sống trong thẳm sâu cõi lòng người thiếu nữ Tây Bắc.
* Thời điểm làm hồi sinh sức sống là những đêm tình mùa xuân:
- Trong đêm tình mùa xuân, âm thanh đầu tiên vọng vào tâm hồn Mị là tiếng sáo gọi bạn tình – tiếng sáo “thiết tha, bổi hổi” đã đánh thức tâm hồn Mị:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.
Mị “ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Cô Mị sau bao ngày lặng câm đã lên cất tiếng hát. Bản “Tình ca Tây Bắc” của đôi lứa vùng cao, của những con người tự do, khát khao hạnh phúc đã vọng về trong Mị, đánh dấu một bước trở lại của người con gái yêu đời, yêu cuộc sống ngày nào.
- Hòa trong không khí vui xuân và trong cái nồng nàn của bữa rượu ngày Tết, “Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cách uống chứa đầy tâm trạng như muốn nuốt trôi bao uất ức, đắng cay. Mị uống để quên đi phần đời cay đắng đã qua, để sống lại phần đời tươi trẻ đã có.
- Tiếng sáo và men rượu đã đưa Mị thoát ra khỏi tình trạng nguội lạnh bấy lâu nay của tâm hồn. Mị trở về với những kí ức tươi đẹp của một thời thiếu nữ: “tai Mị văng vẳng tiếng sáogọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi…Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Tiếng sáo là biểu tượng của quá khứ tươi đẹp, là dư âm của một thời xa vắng đã bị Mị lãng quên trong những tháng ngày đầy giông tố của cuộc đời. Tiếng sáo đã trở thành tiếng gọi của kỉ niệm và của sự sống. Âm thanh ấy là nhịp cầu nối giữa hiện tại đau khổ với quá khứ tươi đẹp, là con thuyền đưa Mị về với bến xưa dẫu chỉ là trong tâm tưởng.
-Tình trạng sống mà như đã chết ở Mị được cởi bỏ, Mị thấy “phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Lần đầu tiên sau những ngày tháng mất ý niệm về thời gian, không gian, về bản thân, Mị cảm thấy mình “trẻ lắm”, “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Lòng ham sống trong Mị đã trỗi dậy, khát vọng hạnh phúc thuở nào đã bừng tỉnh. Mị ý thức rất rõ quyền được sống, được “đi chơi ngày Tết” của mình như bao người phụ nữ có chồng khác.
- Khi ý thức sống trỗi dậy thì cũng là lúc Mị cảm nhận rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa của cuộc sống thực tại, cuộc sống ngột ngạt, không tình yêu “A sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Nếu trước đây, vì “quen khổ rồi”, Mị không còn nghĩ đến việc ăn lá ngón tự tử nữa thì giờ đây “nếu có nắm lá ngón trong tay…Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”. Đây chính là biểu hiện của sự xung đột gay gắt giữa khát vọng sống chân chính với thực tại đau đớn mà Mị đang trải qua.
- Trong trạng thái đau đớn gần như tuyệt vọng thì tiếng sáo lại nâng đỡ tâm hồn Mị : “Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”:
Anh ném pao, em không bắt.
Em không yêu, quả pao rơi rồi.
Những giai điệu tình yêu lẫn những lời lỗi hẹn đáng tiếc trong khoảnh khắc này bỗng trở thành những nốt nhạc ngân lên trong tâm hồn Mị: “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Tiếng sáo tâm tưởng ấy thôi thúc Mị thực hiện hành động đi chơi, đưa Mị tiến thêm một bước trong hành trình tìm lại chính mình. Mị sửa soạn đi chơi: Mị “đến góc nhà, lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”, rồi Mị “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa”. Mị đang thắp sáng cuộc đời mình, cố gắng xua đi bóng tối đang bủa vây và tìm lại những giây phút yêu đời đã mất.
- Giữa lúc ngọn lửa khát khao sự sống vừa bùng lên mạnh mẽ thì cũng là lúc nó bị dập tắt một cách phũ phàng nhất. A Sử đã không cho Mị đi chơi: “A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, … A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại”. Miêu tả một cách cụ thể tỉ mỉ từng động tác trói vợ của A Sử, nhà văn muốn nhấn mạnh bản chất tàn bạo của cường quyền, mà hiện thân là sợi dây trói. Nó chính là nỗi ám ảnh khiếp hãi của người dân lao động miền núi trước cường quyền bạo ngược.
- Thế nhưng sợi dây trói chỉ trói buộc thể xác Mị chứ không thể nào dập tắt được khát vọng sống trong tâm hồn Mị. Mị như quên mình “đang bị trói”, hơi rượu vẫn nồng nàn, tâm hồn Mị vẫn đi theo tiếng sáo đến với những cuộc chơi:
Em không yêu, quả pao rơi rồi.
Em yêu người nào, em bắt pao nào.
Những giai điệu tình yêu vẫn được nối tiếp, tiếng sáo gọi bạn tình vẫn ngân nga trong tâm hồn Mị. Trong đêm bị trói, giữa trạng thái lúc mê, lúc tỉnh, khi thì “khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức”, khi thì “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”, Mị vẫn “nồng nàn tha thiết nhớ”. “Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo”. Mị vẫn sống với những khát khao cháy bỏng của mình. Giai điệu tiếng sáo lúc này chính biểu tượng cho sức sống bất diệt trong tâm hồn con người.
=> Miêu tả một cách sống động diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân, Tô Hoài đã khẳng định sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong tâm hồn Mị. Sức sống ấy vẫn luôn âm ỉ chứ không thể nào mất đi dẫu Mị bị dập vùi. Đó chính là chiều sâu nhân đạo trong ngòi bút Tô Hoài.
b. Đêm đông buốt giá, Mị cứu A Phủ.
Sau đêm tình mùa xuân, khi khát vọng sống bị dập tắt một cách phũ phàng, Mị lại âm thầm cam chịu kiếp đời trâu ngựa trong nhà thống lí Pá Tra. Thế rồi, vào một đêm mùa đông buốt giá, khát vọng tự do trong Mị lại có cơ hội trỗi dậy, Mị cứu A Phủ, giải thoát cho người và giải phóng cho mình.
* Hoàn cảnh Mị và A Phủ gặp nhau:
- Những đêm đông buốt giá trên núi cao, Mị thường thức dậy để sưởi lửa. Trong ánh lửa bập bùng giữa đêm lạnh, Mị nhìn thấy cảnh A Phủ bị trói đứng vào cột có thể đến chết.
- A Phủ là một chàng trai nghèo, mồ côi nhưng khỏe mạnh và chăm lao động. Sau sự việc A Phủ đánh A Sử - con quan thống lí Pá Tra – A Phủ bị phạt vạ và trở thành người ở trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Trong một lần chăn bò, vì mải mê bẫy nhím, A Phủ đã để hổ ăn mất một con bò. Mặc dù A Phủ có xin đi bắt hổ để lấy công chuộc tội nhưng thống lí Pá Tra không đồng ý, đem trói đứng A Phủ vào cột nhà.
*Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị:
- Lúc đầu nhìn thấy cảnh A Phủ bị trói, Mị dửng dưng vô cảm “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay”.Trong suy nghĩ của Mị lúc này “A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Sự chai lì về cảm xúc và tình trạng lạnh lùng đến đáng sợ ấy là dấu hiệu của một tâm hồn tê dại, không còn đủ sức để cảm thông, chia sẻ với nỗi đau của người khác. Có thể nói rằng, Mị đang đứng bên bờ vực của sự tha hóa.
- Thế nhưng, ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài đã đưa Mị thoát khỏi tình trạng vô cảm ấy. Khi nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ, Mị lại thức tỉnh. Từ cõi quên, Mị trở về cõi nhớ, Mị nhớ lại kí ức đau khổ của mình: “đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Mị nhớ lại câu chuyện một người đàn bà đã từng bị trói đến chết tại nhà thống lí năm xưa. Nhìn A Phủ, Mị phán đoán nay mai A Phủ sẽ chết: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Từ nỗi thương mình, Mị thấy thương người. Một mối đồng cảm giữa những con người cùng chung số phận dâng lên trong lòng Mị. Trong khoảnh khắc này, Mị nhận ra tội ác của bọn thống trị “chúng nó thật độc ác”. Lời kết tội ấy cùng với mối đồng cảm giai cấp đã thôi thúc Mị hành động. Mị quyết định cắt dây mây cởi trói cho A Phủ.
-Sau khi cắt dây trói cho A Phủ, Mị rơi vào trạng thái hốt hoảng, sợ hãi “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Có lẽ lúc này trong Mị đang diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt giữa nỗi lo sợ cố hữu và khát vọng sống. Cuối cùng khát vọng sống đã lấn át nỗi sợ, đem đến sức mạnh để Mị “vụt chạy” theo A Phủ, thoát ra khỏi địa ngục trần gian.
+ Hành động cắt dây trói và chạy theo A Phủ của Mị không chỉ là hành động tự phát của người dân không cam chịu nô lệ mà đó là hành động tự giác, là sự vùng lên của những con người bị đè nén, vùi dập đến tận cùng nỗi đau.
+Hành động ấy còn mang ý nghĩa đánh thức những thân phận khổ đau trong xã hội cũ, kêu gọi họ đứng dậy đấu tranh giải phóng cho mình.
=>Thông qua diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân và trong đêm đông cởi trói cho A Phủ, nhà văn Tô Hoài bày tỏ thái độ trân trọng trước khát vọng sống mạnh mẽ của người dân lao động vùng cao trong hoàn cảnh họ bị áp bức, bất công.
3. Nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật Mị.
Nhà văn Nga Lêônốp Lêônít viết rằng: “Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”. Sẽ là một thiếu sót nếu chúng ta chỉ khám phá vẻ đẹp hình tượng nhân vật Mị ở phương diện nội dung mà quên đi hình thức thể hiện. Nhà văn Tô Hoài đã bộc lộ rõ nét tài năng của người nghệ sĩ trong việc khắc họa hình tượng nhân vật điển hình.
-Bằng vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc về phong tục tập quán của người Mèo vùng núi cao Tây Bắc như : phong tục ăn Tết sau mùa gặt hái, tục cướp vợ trong hôn nhân, hủ tục mê tín “cúng trình ma” và luật lệ trói người tàn bạo …, nhà văn đã dựng lên một bức tranh sinh động về cuộc sống của người dân Tây Bắc mà trong đó cuộc đời Mị hiện ra với nhiều biến cố đau buồn.
-Đặc biệt, Tô Hoài đã khẳng định biệt tài trong nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật.
+Tiếng nói bên trong tâm hồn Mị được khám phá dưới nhiều góc độ khác nhau: khi thì được giãi bày gián tiếp qua những hình ảnh so sánh độc đáo của nhà văn: “càng ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc lại bộc lộ trực tiếp qua nỗi lòng của Mị: “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”, lại có những câu văn mà người đọc khó phân biệt giữa ngôn ngữ tác giả hay lời nhân vật: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau ! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay”.
+Nhà văn cũng vô cùng tinh tế khi miêu tả những trạng thái cảm xúc của Mị trong đêm tình mùa xuân hay trong đêm đông buốt giá Mị cứu A Phủ. Người đọc như sống cùng cảm xúc hân hoan hạnh phúc của Mị khi nghe tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân: “Mị ngồi nhẩm thầm bài hát”, “Mị thấy phơi phơi phới trở lại… trong lòng đột nhiên vui sướng”… hay lo lắng cũng nỗi sợ hãi của Mị sau khi cắt dây mây cởi trói cho A Phủ…
4. Kết luận:
-Bằng vốn hiểu biết phong phú, tài năng sử dụng ngôn ngữ đắc địa, tài ba và nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo, Tô Hoài đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật Mị. Nhân vật điển hình cho số phận những người phụ nữ lao động vùng cao - những con người tuy chịu bao đắng cay tủi nhục nhưng vẫn tiềm tàng một sức sống và một khát vọng tự do mãnh liệt.
- Hình tượng nhân vật Mị đã góp phần làm nên chiều sâu nhân đạo cho truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, đồng thời khẳng định tài năng và tấm lòng của nhà văn Tô Hoài trong dòng văn xuôi chống Pháp.
B. Nhân vật A Phủ.
1. Về lai lịch và tính cách:
- Là một chàng trai nghèo, mồ côi nhưng khỏe mạnh và chăm lao động.
+Đến tuổi thanh niên, A Phủ không có điều kiện để xây dựng gia đình. Mặc dù được nhiều cô gái trong làng mê nhưng A Phủ vẫn không lấy được vợ vì “A Phủ không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc”.
+ A Phủ lao động giỏi “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. A Phủ là niềm ao ước của nhiều cô gái: “Đứa nào có A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà”.
- Là một con người yêu đời, yêu tự do, sống thẳng thắn, mạnh mẽ và không sợ cường quyền.
+ Ngày Tết đến dù chẳng có quần áo mới như nhiều trai khác, A Phủ cũng cùng trai làng đem sáo, khèn, đem con quay và quả pao, quả yến đi tìm người yêu.
+ A Phủ sống ngay thẳng, không sợ uy quyền mà bằng chứng là A Phủ đánh A Sử - dám đánh con quan.
2. Về số phận: A Phủ là nạn nhân của cường quyền bạo ngược.
- A Phủ bị cường quyền chèn ép mà thể hiện rõ nhất là phiên tòa xử kiện A Phủ đánh con quan. Đó là một phiên tòa hết sức bất công và phi pháp: phiên tòa diễn ra trong tiếng chửi, trong tiếng “đấm đánh huỳnh huỵch” và trong những làn khói thuốc phiện dày đặc. Người phát đơn kiện cũng là người ngồi ghế quan tòa còn bị cáo thì im lặng chịu đòn không được nói một lời thanh minh và kết quả phiên tòa là A Phủ trở thành người ở trừ nợ của nhà quan thống lí.
- Trong lúc chăn bò, vì để hổ ăn mất một con bò nên A Phủ bị cha con thống lí Pá tra trói đứng, có thể chết giữa những ngày đông giá rét.
3. Trong tâm hồn A Phủ vẫn ẩn chứa khát vọng tự do mãnh liệt.
- Lúc bị trói, A Phủ khao khát được thoát khỏi sự tàn bạo của cường quyền.
+ Hằng đêm A Phủ cố sức day những vòng dây mây để thoát ra.
+ Khi rơi vào tình thế tuyệt vọng, A Phủ đã khóc “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Dòng nước mắt tuyệt vọng ấy là biểu hiện của một tâm hồn khao khát được sống.
+ Khi được Mị cắt dây cởi trói, lúc đầu A Phủ “khuỵu xuống” nhưng sau đó A Phủ “quật sức vùng lên, chạy”. Chính sức mạnh tinh thần đã giúp A Phủ giải thoát.
+ Khi Mị chạy theo, A Phủ đã cất lên câu nói đầy tự tin: “Đi với tôi”. Câu nói mạnh mẽ ấy, vừa truyền sức mạnh, nghị lực sống cho người phụ nữ đáng thương, vừa củng cố niềm tin và tạo sức mạnh cho bản thân mình.
Tóm lại: Khắc họa nhân vật A Phủ trong mối quan hệ song hành với nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã làm sâu sắc thêm tiếng nói tố cáo cường quyền bạo ngược; đồng thời nhấn mạnh những phẩm chất tốt đẹp cũng như sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do cháy bỏng trong tâm hồn người dân lao động miền núi dưới chế độ thực dân, phong kiến.
III. Tổng kết:
1.Giá trị nội dung: Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc:
- Đồng cảm, xót thương cho số phận tủi nhục của người dân Tây Bắc; đồng thời lên án, tố cáo những thế lực vùi dập con người: cường quyền bạo ngược và thần quyền hủ tục.
- Phát hiện, trân trọng, ngợi ca những vẻ đẹp cũng như sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do mạnh mẽ của người dân lao động miền núi; đồng thời chỉ cho họ con đường đi đến tự do.
2.Giá trị nghệ thuật: Thể hiện những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Tô Hoài:
- Lối viết giản dị, chân thực, ngôn ngữ vừa giàu tính tạo hình, vừa giàu chất thơ.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình sắc nét và miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc.