Phân tích tác phẩm Vợ chồng A phủ

Thứ năm - 09/05/2024 21:51
Tô Hoài là một nhà văn vô cùng tài năng với rất nhiều thể loại, ông được coi là một cây bút văn xuôi hàng đầu trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

Phân tích tác phẩm Vợ chồng A phủ - Bài làm 1

Tô Hoài là một nhà văn vô cùng tài năng với rất nhiều thể loại, ông được coi là một cây bút văn xuôi hàng đầu trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông được đánh giá là nhà văn của những sự thật đời thường, là người với vốn hiểu biết rất phong phú và sâu sắc về những phong tục tập quán ở nhiều vùng miền khác nhau. Trước khi Cách mạng xảy ra, ngòi bút của ông chủ yếu hướng đến vùng đất nông thôn nghèo cùng thế giới của loài vật. Sau Cách mạng, phong cách văn của ông lại có sự chuyển đổi, hướng tới những vùng đất nông thôn rộng lớn hơn, đặc biệt là vùng đất Tây Bắc.

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” chính là thành quả của chuyến đi công tác lên vùng núi Tây Bắc của ông. Tác phẩm đã phê phán và tố cáo chế độ phong kiến miền núi đang bóc lột, áp bức lên quyền sống và quyền hạnh phúc của người dân. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng mang đến cho người đọc một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Cảm thông trước những số phận đau thương của những người lao động nghèo khổ bất hạnh, bị tước đoạt đi cả quyền sống lẫn quyền tự do, bị hành hạ liên tục cả về thể xác lẫn tinh thần. Đồng thời còn trân trọng ngợi ca sức sống tiềm ẩn vô cùng mãnh liệt và luôn hướng tới một tương lai sau này tốt đẹp hơn.

Bằng kết cấu hồi tưởng, trần thuật ở thời điểm hiện tại sau đó lại ngược trở về quá khứ Tô Hoài đã xây dựng những dấu ấn cá nhân riêng biệt bằng lối kể chuyện đầy linh hoạt, sống động của mình. Trước khi trở thành dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra, Mị đã là một cô gái vô cùng xinh đẹp, ngây thơ, yêu đời cùng với tài thổi sáo. Đặc biệt, Mị còn là cô gái với lòng tự trọng rất cao và luôn muốn được tự định đoạt cuộc đời của chính mình. Mị đã từng là ao ước của không biết bao nhiêu chàng trai trong làng. Thế nhưng cuộc đời lại không màu hồng và có nhiều trái ngang, nó đã xô đẩy Mị, làm ngược lại với mọi điều mà cô mong muốn. Chỉ vì muốn giúp cha mình trả món nợ truyền kiếp từ thời xa xưa mà Mị bỗng dưng làm dâu gạt nợ của nhà họ Lý kia. Bị ràng buộc bởi món nợ, Mị còn bị ràng buộc cả những hủ tục hôn nhân cổ hủ. Nỗi đau khổ chất đầy lên một cô gái trước đây đã từng ao ước về một cuộc sống được tự do, luôn luôn khát khao có được hạnh phúc thật sự. Chỉ đến đây thôi chúng ta cũng đã nhìn nhận được cái xã hội mà bọn lang đạo, bọn phong kiến miền núi đã bóc lột, đã tước đi quyền tự do của những con người lao động lầm than, nghèo khổ. Ba tiếng “dâu gạt nợ” như hé lộ cho người đọc thấy một cuộc đời chồng chất những đau khổ, những bi kịch mà Mị đã và đang phải gánh chịu.

Mị – một cô gái sinh ra vốn rất yêu đời, ngây thơ và tràn đầy sức sống như vậy, một người con hiếu thảo, nhận thức được giá trị của sự tự do nên đã xin phép cha lên làm nương để lấy tiền trả nợ, còn khẩn nguyện cầu xin “đừng bán con cho người giàu” nhưng chính vì sự đàn áp, vì những hủ tục lạc hậu mà cướp đi biết bao nhiêu ước mơ, hoài bão, vùi dập thanh xuân tươi đẹp và cuộc sống tự do của một cô gái. Mị đã bị A Sử cướp về để “cúng trình ma” nhà thống lí. Cuộc đời Mị từ đó luôn gắn liền với số phận đau khổ của người con dâu gạt nợ nhà thống lí. Cô cũng có phẫn uất, có thương xót cho chính số phận của mình. Đau khổ cùng cực lắm nên Mị đã từng có ý định tự tử bằng lá ngón nhưng cô lại “không đành lòng chết” vì còn thương cha, muốn hoàn thành đạo làm con. Có lẽ chết đi chính là cách tốt nhất để Mị có thể giải thoát cho cuộc đời nô lệ lầm than của mình, sẽ không còn xót xa hay căm hờn bất cứ thứ gì nữa nhưng nếu chết rồi thì cha vẫn phải trả nợ cho chúng, nên cô lại ngậm ngùi ôm chặt nỗi tủi nhục mà tiếp tục sống.

Từ thái độ phản kháng vô cùng kịch liệt, Mị đã cam chịu và chấp nhận hoàn cảnh của mình. Lâu dần nên Mị cũng quen được với cái khổ, cuộc sống của Mị còn được ví không bằng con trâu, con ngựa, phải làm việc quần quật cả ngày lẫn đêm không được giờ phút nghỉ ngơi nào. Mọi công việc trong gia đình họ như hái thuốc phiện, quay sợi, giặt đay, xe đay, bẻ bắp, dệt vải, chẻ củi, cõng nước,… cứ nối tiếp nhau “vẽ ra trước mặt” để bắt buộc cô phải làm. Cả ngày Mị chẳng nói năng gì, lúc nào cũng cúi gằm mặt y như “con rùa nuôi trong xó cửa”. Càng ngày, Mị lại càng trở nên câm lặng và chấp nhận số phận, cam chịu trước cuộc sống đầy dẫy những bất công mà không một lời kêu ca, oán trách. Đau đớn về cả thể xác lẫn tinh thần cũng bí bách khôn nguôi, còn gì buồn hơn việc lấy chồng mà chồng lại không phải là người mà mình thương yêu, đến một sự sẻ chia, lời an ủi cũng không có, chứ nói gì đến việc có người bạn đời tâm tình những lúc chán nản, mệt mỏi. Thật đau đớn làm sao cho những kiếp người dân nghèo khổ, bất hạnh với biết bao nỗi bất công nhưng vẫn không thể chống cự,  tuyệt vọng ngập tràn. Mọi thứ đổ dồn lên người, nên lúc này đây, Mị cũng đang phó mặc, buông bỏ số phận của mình theo thời gian. Đọc những dòng miêu tả Mị lúc đó, chúng ta cảm thấy đồng cảm và xót thương cho số phận con người và cũng căm phẫn bọn thống trị miền núi thật nhiều. Xót thương với số phận tăm tối khổ sở của nàng, căm phẫn trước cái chế độ tàn ác đầy rẫy sự bất công của xã hội cũng đã đẩy con người ta đến con đường cùng vô cùng tăm tối.

Những tưởng rằng Mị đã hoàn toàn vô cảm trước thế giới bên ngoài, nhưng chính cảnh sắc của thiên nhiên Tây Bắc vào mùa xuân và những âm thanh vang vọng từ sáo đã đánh thức, khơi dậy sự yêu đời, sức sống đã từng bị vùi lấp trong con người của Mị. Tiếng sáo ấy cũng đánh thức được tâm hồn đã bị ngủ quên của Mị bấy lâu nay. Mị cảm nhận được những âm hưởng ‘thiết tha bồi hồi” trong tiếng sáo gọi bạn đi chơi ngoài lễ hội. Không khí trở nên nhộn nhịp, náo nức trong những ngày Tết khiến Mị như được “sống về những ngày trước”. Mị đã lén uống rượu, “uống ừng ực từng bát” như muốn đem hết những nỗi phẫn uất vào trong. Tâm hồn Mị bỗng trở nên “phơi phới trở lại”. Điều đặc biệt là Mị đã nhận thức được bản thân, cô đã nhận ra rằng mình vẫn còn rất trẻ và vẫn muốn được đi chơi ngoài kia trong những ngày Tết. Từ mong muốn đó chuyển thành hành động, Mị thắp đèn lên và chiếu sáng cả căn phòng tối tăm kia, quấn lại đầu tóc gọn gàng rồi lấy cái váy hoa đã được sửa soạn để đi chơi. Hành động thắp sáng căn phòng của Mị cũng giống như thắp sáng một lần nữa cuộc đời của Mị. Tâm hồn Mị đã thực sự sống lại và muốn vùng vẫy nhằm thoát ra vòng áp chế của các thế lực cường quyền lẫn thần quyền và cả phụ quyền. Nhưng trớ trêu thay, đó cũng chỉ mới là ý định mà thôi, Mị chưa kịp thực hiện dự định ấy thì đã bị A Sử phát hiện ra và đem cô trói vào cột nhà bằng cả thúng sợi đay. Nhưng lúc đó, tâm hồn Mị vẫn còn tư tưởng đến tiếng sao mà quên đi nỗi đau về thể xác đến khi nghe thấy tiếng chân ngựa đạp vào vách thì Mị mới bừng tỉnh về về thực tại. Làm dâu con nhà giàu nhưng thân phận của Mị chẳng ra gì, thậm chí còn không bằng được con trâu, con ngựa.

Là một người sống lặng lẽ, âm thầm và cam chịu là vậy nhưng ẩn sâu bên trong tâm hồn là một sức sống tiềm ẩn vô cùng mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện rất rõ qua hành động Mị đã cắt dây trói để giải cứu A Phủ và theo anh trốn khỏi Hồng Ngài. Đây cũng là hành động tự giải thoát cho chính số phận của mình. Nó xuất phát từ sự đồng cảm, thương người như thể thương thân. Mị đã tự giải thoát được cuộc đời của mình khỏi ách áp bức, bóc lột của cả cường quyền lẫn thần quyền. Hành động ấy tuy có chút tự phát nhưng nó lại rất hợp lý.

Không chỉ khắc họa lên số phận bèo bọt, bất hạnh của người phụ nữ, Tô Hoài còn khắc họa được số phận của người đàn ông miền núi đã phải chịu những sự bất công ngay trong xã hội đó. Đó chính là A Phủ – một chàng trai nghèo khổ, vốn mồ côi cả cha lẫn mẹ từ khi còn bé lại chẳng còn người thân. Khi còn nhỏ, A Phủ đã trở thành món đồ để đổi lấy thóc của người Thái nhưng anh lại là một người vô cùng gan bướng, không chịu sống dưới cánh đồng thấp, nên đã lẻn trốn lên núi và bị lưu lạc đến Hồng Ngài. Tuy cuộc sống còn nghèo khó nhưng A Phủ đã tự biết lao động, chăm chỉ làm lụng nhằm nuôi sống chính mình. Anh biết làm và thông thạo tất cả công việc từ đúc lưỡi cày, cày giỏi, đục cuốc và còn đi săn bò tót rất bạo. Vì thế mà A Phủ là mong muốn của rất nhiều cô gái và họ còn ví anh là “con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. A Phủ còn là một người tốt bụng, có sự gan bướng, biết vượt qua mọi khó khăn và nhận thấy bất bình trước những sự bất công. Trước sự hống hách và ngạo mạn của A Sử – con trai nhà thống lý, A Phủ sẵn sàng ra tay để đòi lại công bằng, anh đánh cho A Sử một trận nhừ tử, và cũng chính vì lý do này mà A Phủ đã bị bắt và phải là con nợ làm thuê để trả nợ từng ngày cho nhà thống lý.

A Phủ đánh A Sử không phải vì anh hiếu chiến, ngang tàn mà là vì anh không thể chấp nhận được sự bất công trong xã hội, sự thống trị cũng như sự lên ngôi của cái ác. Sự áp chế của cường quyền đã đẩy con người yêu thích sự tự do, phóng khoáng như A Phủ trở thành một con người phải cam chịu số phận khốn khổ của mình. Anh cũng chấp nhận cuộc sống ở đợ để trừ nợ cho nhà thống lí. Chỉ vì một lần mải mê bẫy nhím mà A Phủ đã vô tình để hổ bắt mất một con bò. Vì vậy mà A Phủ đã nhà thống lý phạt bằng cách trói đứng vào cột nhà đến chết. Chịu những trận đòn roi đau đớn đến chết đi sống lại, thấy vô cùng thương xót cho số phận của mình, A Phủ đã không thể cầm lòng mà rơi nước mắt. Cũng chính yếu tố này đã lay động được tình thương, sự đồng cảm của Mị. Và cuối cùng Mị đã quyết định chính tay cắt dây trói để cứu A Phủ. Hành động “quật sức vùng lên chạy” đã phần nào bộc lộ khát vọng sống, muốn chấm dứt thân phận đi ở trừ nợ, khát vọng được sống tự do của anh mãnh liệt biết bao nhiêu. Mị xin A Phủ cho đi cùng, cả hai đã cùng nhau trốn ra khỏi Hồng Ngài, thoát khỏi nơi đã giam giữ cả thể xác lẫn tinh thần của họ. Và cuối cùng họ đã thức tỉnh và tìm đến con đường cách mạng, con đường duy nhất để giải thoát họ và tìm đến sự tự do.

“Vợ chồng A Phủ” đã mang đến cho độc giả những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc.Thông qua tác phẩm này, nhà văn Tô Hoài muốn lên án chế độ phong kiến thời bấy giờ và giai cấp thống trị đã bóc lột thể xác và tinh thần của con người bằng hình thức hiện nay gọi là cho vay nặng lãi. Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà Mị đã bị coi vật thế mạng. Đồng thời ông cũng tố cáo những hủ tục lạc hậu, cổ hủ như “cúng trình ma” đã buộc người dân tin phải mê tín, khiến họ không dám vùng lên, thoát ra vòng vây đau khổ để tự cứu lấy bản thân mình. Ngoài ra, nhà văn cũng thể hiện rõ nét lòng thương xót và cảm thông trước những số phận của những người nông dân lao động miền núi phải chịu không biết bao nhiêu áp bức, bóc lột từ tầng lớp thống trị thủ đoạn và tàn ác. Từ đó cũng ca ngợi lên sức sống mãnh liệt tiềm ẩn bên trong mỗi con người họ. Chính sức sống mãnh liệt ấy đã giúp giải thoát cuộc đời của họ và tìm đến được cách mạng, hướng tới cuộc sống tự do.

Bằng bút pháp cá thể hóa, nhà văn gây dựng thành công hình tượng của hai nhân vật Mị và A Phủ – nhân vật đại diện cho tầng lớp những con người lao động nghèo, mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp nhưng phải chịu số phận vô cùng bất hạnh, đau thương. Mị đại diện cho kiểu nhân vật tâm trạng còn A Phủ thì đại diện cho kiểu nhân vật hành động. Làm nền cho sự nổi bật về những con người ấy trong truyện là bức tranh gợi tả cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc thật tươi đẹp: “gió thổi vào gianh vàng ửng” và “trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Những câu văn luôn khơi gợi tạo hình. Cùng với đó là những phong tục, tập quán thường thấy của người miền núi như tục lệ bắt vợ, cảnh phạt vạ hay cảnh xử kiện quái gở cũng được hiện lên một cách độc đáo. Truyện được kể dựa vào ngôi thứ ba, với điểm nhìn trần thuật có sự chuyển đổi từ điểm nhìn của người đi xa về tới điểm nhìn của những người trong cuộc vì thế nó vừa mang tính chất khách quan lại vừa chứa chan nỗi niềm cảm thông với nhân vật. Ngôn ngữ văn xuôi lại mang đậm chất thơ cũng là một yếu tố quan trọng để tạo nên sự lôi cuốn và sức hấp dẫn cho tác phẩm.

Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã đem đến cho người đọc một cái nhìn thật bao quát, toàn diện hơn về bức tranh vẽ nên cuộc sống của người dân vùng núi Tây Bắc. Trang văn này tuy đã khép lại nhưng dư âm của nó thì còn lưu lại mãi trong tâm trí. Tuy nhà văn Tô Hoài đã ra đi nhưng những tác phẩm, những giá trị nhân văn của ông thì vẫn còn vẹn nguyên giá trị trong lòng người đọc trong hôm nay và cả mai sau nữa.
 

Phân tích tác phẩm Vợ chồng A phủ - Bài làm 2

Tô Hoài đã kể lại rằng: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương, để nhớ trong tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi hốc núi làng Tà Sùa rồi cùng vẫy tay gọi theo: Chéo lù! Chéo lù!". Có lẽ đây chính là lí do để ông viết tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” như lời tri ân dành cho con người nơi rẻo cao Tây Bắc.

Truyện ngắn này được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1952) và được tặng giải Nhất - Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955. “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh Tây Bắc với những phong tục, tập quán riêng biệt. Ở phần một của tác phẩm, Tô Hoài đã chủ yếu khắc họa cuộc sống của nhân vật Mị và A Phủ khi họ ở Hồng Ngài, sống cuộc sống nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra.

Trước khi về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí, Mị là một cô gái xinh đẹp, yêu đời, yêu cuộc sống tự do. Mị có tài thổi sáo giỏi, “thổi lá cũng hay như thổi sáo” khiến “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Tuy sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, ngày xưa bố mẹ phải vay tiền để cưới nhau, đến khi mẹ Mị chết vẫn chưa trả hết nợ nhưng Mị luôn có ý thức về cuộc sống của mình. Cô đã nói với bố: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu” khi thống lí muốn bắt Mị về làm con dâu gạt nợ. Đó là tiếng nói của sự phản kháng tục dùng con người làm vật thế mạng cho món nợ tiền bạc của các dân tộc miền núi. Lệ tục cổ hủ này đã cướp đi cuộc sống tự do của biết bao con người. Đồng thời câu nói ấy cũng thể hiện niềm tin vào sức sống của bản thân trong con người Mị. Mị tin rằng mình có thể làm nương ngô để trả nợ thay cho bố.

Nhưng Mị đã bị A Sử cướp và đem về “cúng trình ma” nhà thống lí. Cuộc đời của Mị đã gắn liền với số phận của người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra. Cô phẫn uất, đau đớn cho chính thân phận của mình. Có đến hàng mấy tháng, đêm nào cô cũng khóc. Mị định tự tử bằng lá ngón nhưng cô “không đành lòng chết” vì thương bố. Có lẽ chết là cách tốt nhất để Mị giải thoát cuộc đời nô lệ, Mị sẽ không phải xót xa hay căm hờn gì nữa.

Từ thái độ phản kháng, Mị trở nên cam chịu hoàn cảnh. Mị đã quen với cái khổ, “Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa” quần quật làm việc cả ngày lẫn đêm không được nghỉ ngơi. Những công việc hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ bắp, quay sợi, dệt vải, chẻ củi, cõng nước,…cứ nối tiếp nhau “vẽ ra trước mặt” thúc giục cô phải làm. Phải chăng vì thế mà “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Càng ngày, Mị càng câm lặng, chấp nhận số phận mà không một lời oán trách. Khuôn mặt cô dù trong hoàn cảnh nào cũng “buồn rười rượi”. Người phụ nữ ấy đã bị những khổ cực làm chai lì cảm xúc, mất hết ý niệm về thời gian, không gian vì buồng Mị nằm có cái cửa sổ có một lỗ vuông bằng bàn tay, “lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.

Tưởng rằng Mị đã vô cảm với thế giới bên ngoài nhưng chính thiên nhiên Tây Bắc vào mùa xuân mà âm thanh của tiếng sáo là tác nhân khơi dậy lòng yêu đời, sức sống trong con người Mị. Tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn bấy lâu ngủ quên của cô. Mị cảm nhận được âm hưởng ‘thiết tha bổi hổi” của tiếng sáo gọi bạn đi chơi. Không khí của những ngày Tết khiến Mị “sống về những ngày trước”. Mị uống rượu, “uống ừng ực từng bát” như nuốt trôi đi tất cả niềm phẫn uất vào trong. Tâm hồn Mị “phơi phới trở lại”. Điều đặc biệt là Mị đã có ý thức về bản thân, cô nhận ra mình vẫn còn trẻ và muốn được đi chơi ngày Tết. Mong muốn đã chuyển sang thành hành động: “Mị lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng” rồi quấn lại tóc, “lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” sửa soạn đi chơi. Tiếng sáo lửng lơ, mời gọi khiến Mị không thể chối từ. Cô đã thực sự hồi sinh và lột xác để thoát ra khỏi vòng áp chế của các thế lực cường quyền, thần quyền, phu quyền. Nhưng ý định của Mị chưa thực hiện được thì cô đã bị A Sử trói đứng vào cột nhà bằng cả thúng sợi đay. Dường như Mị đã quên đi nỗi đau về thể xác để tâm hồn đi theo những cuộc chơi. Tiếng chân ngựa đạp vào vách đưa Mị trở về thực tại, “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Thân phận làm dâu gạt nợ nhà thống lí không khác gì thậm chí là không bằng thân phận của những con vật như con trâu, con ngựa.

Ẩn đằng sau con người cam chịu đó là một sức sống tiềm tàng đến mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện qua chi tiết Mị cắt dây trói cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài. Đây cũng là hành động cởi trói, tự giải thoát cho chính mình. Nó xuất phát từ tấm lòng “thương người như thể thương thân” của cô. Mị đã tự giải thoát cho mình khỏi sự áp bức, đè nén của cường quyền, thần quyền, phu quyền. Hành động tuy có tính tự phát nhưng vô cùng hợp lí.

Không chỉ khắc họa thân phận người phụ nữ, Tô Hoài còn khắc họa thân phận của người đàn ông miền núi chịu cuộc đời nô lệ. Đó là A Phủ, anh mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ, không có người thân thích. Anh trở thành món hàng để đổi lấy thóc của người Thái nhưng “A Phủ gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài”. Tuy nghèo khó nhưng A Phủ biết lao động để tự nuôi sống bản thân. Anh biết “đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Vì thế nhiều cô gái đã ví có được A Phủ “cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Con người A phủ có sự gan góc, biết vượt qua khó khăn, khổ cực và nguy hiểm. Anh sống tự do, gần gũi với thiên nhiên nhưng vì tội đánh con thống lí mà phải chịu thân phận nô lệ.

A Phủ đánh A Sử không phải do tính cách hiếu chiến, ngang tàn mà là do anh không chấp nhận sự thống trị, lên ngôi của cái ác. Sự áp chế của cường quyền đã đẩy một con người tự do, phóng khoáng trở thành một con người cam chịu số phận. A Phủ phải chịu những trận đòn roi tàn nhẫn nhưng anh “chỉ im như cái tượng đá”. Anh đã chấp nhận cuộc đời đi ở trừ nợ cho nhà thống lí. Vì mải mê bẫy chim mà A Phủ để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị trói đứng vào cột bằng “dây mây quấn từ chân đến vai”. Tình cảnh này đã lay động được tình thương, lòng đồng cảm của Mị. Cô nghĩ rằng: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết” và Mị đã cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động “quật sức vùng lên chạy” phần nào cho thấy khát vọng sống, khát vọng chấm dứt thân phận đi ở trừ nợ của anh. Anh đã thức tỉnh để đến với khu du kích Phiềng Sa, tham gia vào cách mạng.

Truyện “Vợ chồng A Phủ” chứa đựng những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo cao cả.Thông qua tác phẩm, nhà văn Tô Hoài muốn tố cáo chế độ phong kiến và giai cấp thống trị bóc lột con người bằng hình thức cho vay nặng lãi. Vì món nợ của cha mẹ mà Mị bị mang ra làm vật thế mạng. Ông cũng lên án những hủ tục lạc hậu như “cúng trình ma” đã buộc con người vào vòng mê tín, khiến họ không dám thoát ra vòng vây để tự cứu lấy mình. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện lòng xót xa, cảm thông với những người dân lao động miền núi phải cam chịu sự áp bức của tầng lớp thống trị thủ đoạn, gian ác. Tô Hoài ca ngợi sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong con người họ. Chính sức sống ấy đã giúp họ giải thoát họ khỏi cuộc đời nô lệ để đến với cách mạng, đến với cuộc sống tự do.

Bằng bút pháp cá thể hóa, nhà văn đã xây dựng nên hai nhân vật đại diện cho những con người có phẩm chất tốt đẹp nhưng phải chịu số phận bất hạnh, đau khổ. Mị tiêu biểu cho kiểu nhân vật tâm trạng và A Phủ tiêu biểu cho kiểu nhân vật hành động. Làm nền cho sự nổi bật của con người trong thiên truyện là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc tuyệt đẹp: “gió thổi vào gianh vàng ửng”, “trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Đây là những chi tiết nghệ thuật giàu tính tạo hình. Cùng với đó là các phong tục, tập quán như tục bắt vợ, cảnh phạt vạ, cảnh xử kiện được hiện lên độc đáo. Truyện được kể theo ngôi thứ ba, điểm nhìn trần thuật có sự thay đổi từ điểm nhìn của người đi xa về đến điểm nhìn của người trong cuộc nên vừa mang tính khách quan lại vừa chứa chan sự cảm thông với nhân vật. Ngoài ra, Tô Hoài còn xây dựng những chi tiết giàu sức gợi và ý nghĩa như chi tiết tiếng sáo, tiếng chân ngựa đạp vào vách,... Ngôn ngữ văn xuôi đậm chất thơ cũng là một yếu tố quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.

Với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã mang đến cho bạn đọc cái nhìn bao quát, toàn diện về bức tranh cuộc sống của người dân Tây Bắc. Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó thì còn vang mãi. Và tuy Tô Hoài đã ra đi nhưng những tác phẩm của ông vẫn vẹn nguyên giá trị trong lòng bạn đọc hôm nay và cả mai sau.
 

Phân tích tác phẩm Vợ chồng A phủ - Bài làm 3

Tô Hoài một nhà văn tài năng với nhiều thể loại, một cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đai. Ông là nhà văn của sự thật đời thường, là người có vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc về các phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau. Trước Cách mạng, ngòi bút của ông chủ yếu hướng về vùng nông thôn nghèo và thế giới loài vật. Sau Cách mạng, phong cách của ông có sự chuyển hướng, lúc này ngòi bút của ông lại hướng đến những vùng nông thôn rộng lớn hơn, đặc biệt là Tây Bắc.

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là thành quả của chuyến đi thực tế lên vùng Tây Bắc của ông. Tác phẩm đã lên án, phê phán, tố cáo chế độ phong kiến miền núi đang chà đạp, áp bức quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng mang đậm tinh thần nhân đạo. Cảm thương cho số phận khổ đau của những người lao động nghèo bất hạnh, bị tước đoạt đi quyền sống, quyền tự do, bị hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần. Đồng thời còn trân trọng ngợi ca sức sống tiềm tàng mãnh liệt và luôn biết hướng đến một tương lai tốt đẹp của họ.

Bằng kết cấu hồi tưởng, trần thuật ở hiện tại sau đó ngược trở về quá khứ Tô Hoài đã tạo được những dấu ấn cá nhân riêng biệt qua lối kể chuyện đầy linh hoạt của mình. Trước khi về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái xinh đẹp, hồn nhiên, yêu đời và có tài thổi sáo. Đặc biệt, Mị còn là cô gái rất giàu lòng tự trọng luôn muốn làm chủ và muốn tự định đoạt chính cuộc đời của mình. Mị là nỗi niềm ao ước của biết bao chàng trai trong làng. Thế nhưng cuộc đời thật nhiều trái ngang, nó đã xô đẩy Mị, làm trái lại với tất cả những gì mà cô mong muốn. Chỉ vì muốn giúp cha trả món nợ truyền kiếp từ xa xưa mà Mị bỗng dưng trở thành dâu gạt nợ nhà họ Lý kia. Bị ràng buộc về món nợ, Mị còn bị ràng buộc cả về những hủ tục hôn nhân lạc hậu. Nỗi đau khổ chồng chất lên một cô gái trước đây từng ao ước có một cuộc sống tự do, luôn khát khao có được hạnh phúc. Chỉ đến đây thôi ta cũng đã nhìn thấy cái xã hội mà bọn lang đạo, bọn phong kiến chúa đất miền núi đã bóc lột, đã áp bức, đã tước đi quyền tự do của biết bao nhiêu con người lao động nghèo. Ba tiếng “dâu gạt nợ” như hé mở cho người đọc thấy một cuộc sống chồng chất những đau thương, khổ cực, những bi kịch mà Mị đang phải gánh chịu.

Mị – một cô gái vốn yêu đời, hồn nhiên, tràn đầy sức sống như thế, một người con vô cùng hiếu thảo, biết ý thức được cái giá của sự tự do nên đã xin cha lên làm nương lấy tiền trả nợ, còn khẩn nguyện xin “đừng bán con cho người giàu” nhưng vì sự đàn ép, vì hủ tục lạc hậu mà cướp đi ước mơ, hoài bão, chôn vùi đi thanh xuân tươi đẹp và sự tự do của một cô gái. Mị đã bị A Sử cướp và đem về để “cúng trình ma” nhà thống lí. Cuộc đời Mị từ đây gắn liền với số phận của người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí. Cô phẫn uất, đau khổ, thương xót cho chính thân phận của mình. Đau khổ cùng cực nên Mị đã định tự tử bằng lá ngón nhưng cô “không đành lòng chết” vì còn thương cha. Có lẽ chết là cách tốt nhất để Mị có thể giải thoát cuộc đời nô lệ của mình, sẽ không phải xót xa hay căm hờn gì nữa nhưng khi chết rồi cha vẫn phải trả nợ, nên cô đành ngậm ngùi ôm nỗi tủi nhục mà sống tiếp.

Từ thái độ phản kháng kịch liệt, Mị lại trở nên cam chịu, chấp nhận hoàn cảnh. Lâu dần nên Mị cũng đã quen với cái khổ, cuộc sống của Mị còn không bằng con trâu, con ngựa, quần quật làm việc cả ngày lẫn đêm không được nghỉ ngơi. Mọi công việc trong nhà như hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, quay sợi, dệt vải, bẻ bắp, chẻ củi, cõng nước,…nó cứ nối tiếp nhau “vẽ ra trước mặt” bắt cô phải làm. Cả ngày Mị chẳng nói chẳng rằng, lúc nào cũng cúi gằm mặt xuống “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Càng ngày, Mị càng trở lên câm lặng, chấp nhận số phận, cam chịu với cuộc sống đầy bất công mà không một lời oán trách. Đau khổ về thể xác, đến tinh thần cũng bí bách khôn nguôi, còn điều gì đáng buồn hơn khi lấy chồng mà người bên cạnh không phải là người mình thương yêu, đến sự sẻ chia, lời ủi ăn cũng chẳng có, chứ nói gì đến người bạn tâm tình những lúc chán nản, mệt nhoài. Thật đau đớn thay cho những kiếp người nghèo khổ, bất hạnh, phải chịu biết bao nỗi bất công, bao nỗi tuyệt vọng ngập tràn. Mọi thức đổ ập lên người, nên lúc này đây, Mị đang phó mặc, buông xuôi số phận của mình. Đọc những dòng miêu tả Mị lúc này, ta cảm thấy xót thương, đồng cảm cho số phận con người và cũng căm phẫn thật nhiều. Xót thương cho cuộc đời tăm tối khổ đau của nàng, căm phẫn với cái chế độ tàn nhẫn đầy rẫy sự bất công của xã hội của đã đẩy con người ta đến đường cùng tăm tối.

Những tưởng rằng Mị đã hoàn toàn vô cảm với thế giới bên ngoài, nhưng chính cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc vào mùa xuân và âm thanh vang vọng của tiếng sáo là tác nhân đánh thức, khơi dậy lòng yêu đời, sức sống đã bị vùi lấp trong con người Mị. Tiếng sáo ấy đã đánh thức tâm hồn đã bị ngủ quên của Mị bấy lâu. Mị cảm nhận được âm hưởng ‘thiết tha bồi hồi” trong tiếng sáo gọi bạn đi chơi bên ngoài lễ hội. Không khí nhộn nhịp, náo nức của những ngày Tết khiến Mị như “sống về những ngày trước”. Mị lén uống rượu, “uống ừng ực từng bát” như muốn nuốt trôi đi tất cả những phẫn uất vào trong. Tâm hồn Mị bỗng “phơi phới trở lại”. Điều đặc biệt là Mị đã lấy lại ý thức về bản thân, cô đã nhận ra rằng mình vẫn còn trẻ và vẫn muốn được đi chơi ngày Tết. Từ mong muốn chuyển sang thành hành động, Mị thắp đèn lên chiếu sáng căn phòng tối tăm ấy, quấn lại tóc rồi lấy cái váy hoa để sửa soạn đi chơi. Hành động thắp sáng căn phòng của Mị cũng giống như đang thắp sáng cuộc đời của Mị vậy. Mị đã thực sự hồi sinh và muốn vùng vẫy để thoát khỏi vòng áp chế của các thế lực cường quyền, thần quyền và phu quyền. Nhưng trớ trêu thay, đó mới chỉ là ý định mà thôi, Mị chưa kịp thực hiện thì đã bị A Sử phát hiện và trói cô vào cột nhà bằng cả thúng sợi đay. Nhưng lúc này, tâm hồn Mị vẫn còn lửng lơ theo tiếng sao mà quên đi nỗi đau về thể xác đến khi nghe tiêng chân ngựa đạp vào vách Mị mới chợt tỉnh về về thực tại. Làm dâu nhà giàu nhưng thân phận của Mị lại không khác gì thậm chí là không bằng con trâu, con ngựa.

Là một người lặng lẽ, âm thầm cam chịu là vậy nhưng ẩn sâu trong tâm hồn là một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện qua hành động Mị cắt dây trói giải cứu A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài. Đây cũng là hành động tự cởi trói, tự giải thoát cho chính cuộc đời của mình. Nó xuất phát từ tấm lòng đồng cả, thương người rồi thương cả mình. Mị đã tự giải thoát cuộc đời mình khỏi sự áp bức, bóc lột của cường quyền, thần quyền. Hành động này tuy có tính tự phát nhưng nó lại vô cùng hợp lí.

Không chỉ khắc họa thân phận bèo bọt, bất hạnh của người phụ nữ, Tô Hoài còn khắc họa thân phận của người đàn ông miền núi cũng phải chịu những sự bất công của xã hội. Đó là A Phủ – một chàng trai nghèo, vốn mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ lại chẳng có người thân thích. Khi còn nhỏ, A Phủ trở thành món hàng để đổi lấy thóc của người Thái nhưng, anh là một người gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, nên đã trốn lên núi và lưu lạc đến Hồng Ngài. Tuy nghèo khó nhưng A Phủ biết tự lao động, chăm chỉ làm lụng để nuôi sống bản thân. Anh biết và thông thạo mọi công việc từ đúc lưỡi cày, đục cuốc, cày giỏi và còn đi săn bò tót rất bạo. Vì thế nên nhiều cô gái mong muốn có được A Phủ và còn ví rằng có được anh “cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. A Phủ còn là một chàng trai tốt bụng, có sự gan góc, biết vượt qua khó khăn và biết bất bình trước những sự bất công. Trước sự hống hách, ngạo mạn của A Sử – con trai nhà thống lý, A Phủ đã ra tay đòi lại công bằng, anh đã đánh cho A Sử một trận nhừ tử, và cũng chính vì thế mà A Phủ bị bắt và phải là con nợ làm thuê để trả nợ cho nhà thống lý.

A Phủ đánh A Sử không phải do anh hiếu chiến, ngang tàn mà là do anh không chấp nhận sự bất công của xã hội, sự thống trị và sự lên ngôi của cái ác. Sự áp chế của cường quyền đã đẩy một con người yêu tự do, phóng khoáng như A Phủ trở thành một con người cam chịu số phận. Anh đã chấp nhận cuộc đời ở đợ để trừ nợ cho nhà thống lí. Một lần vì mải mê bẫy nhím mà A Phủ để hổ bắt mất một con bò. Vì vậy mà A Phủ đã nhà thống lý trói đứng vào cột nhà cho tới chết. Chịu những cảnh đòn roi đau đớn đến chết đi sống lại, thấy thương xót, tủi nhục với số phận của mình, A Phủ đã không cầm lòng được mà rơi nước mắt. Cũng chính điều này đã lay động được tình thương, lòng đồng cảm của Mị. Và cuối cùng Mị đã quyết định cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động “quật sức vùng lên chạy” đã phần nào cho thấy khát vọng sống, khát vọng chấm dứt thân phận đi ở trừ nợ, khát vọng tự do của anh mãnh liệt đến dường nào. Mị xin A Phủ đi cùng, cả hai đã cùng nhau chạy trốn khỏi Hồng Ngài, thoát khỏi trốn ngục từ đã giam giữ cả thể xác lẫn tinh thần của họ. Và cuối cùng họ đã thức tỉnh tìm đến với con đường cách mạng, con đường duy nhất có thể giải thoát và tìm về sự tự do.

“Vợ chồng A Phủ” mang những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.Thông qua tác phẩm, nhà văn Tô Hoài muốn lên án tố cáo chế độ phong kiến lúc bấy giờ và giai cấp thống trị đã bóc lột con người bằng hình thức cho vay nặng lãi. Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà Mị bị mang ra làm vật thế mạng. Đồng thời ông cũng lên án những hủ tục lạc hậu, cổ hủ như “cúng trình ma” đã buộc con người vào vòng mê tín, khiến họ không dám đứng lên, thoát ra vòng vây để tự cứu lấy mình. Ngoài ra, nhà văn cũng thể hiện lòng thương xót, cảm thông với số phận của những người dân lao động miền núi phải cam chịu sự áp bức, bóc lột của tầng lớp thống trị thủ đoạn, gian ác. Từ đó ca ngợi sức sống mãnh liệt tiềm tàng ẩn sâu trong mỗi con người họ. Chính sức sống ấy đã giúp giải thoát cuộc đời họ và tìm đến với cách mạng, đến với cuộc sống tự do.

Bằng bút pháp cá thể hóa, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng của hai nhân vật Mị và A Phủ – đại diện cho những con người lao động nghèo có phẩm chất tốt đẹp nhưng phải chịu số phận bất hạnh, đau khổ. Mị tiêu biểu cho kiểu nhân vật tâm trạng còn A Phủ thì tiêu biểu cho kiểu nhân vật hành động. Làm nền cho sự nổi bật của con người ấy trong thiên truyện là bức tranh cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc tuyệt đẹp: “gió thổi vào gianh vàng ửng” và “trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Những câu văn giàu tính tạo hình. Cùng với đó là các phong tục, tập quán của người miền núi như tục bắt vợ, cảnh phạt vạ hay cảnh xử kiện được hiện lên một cách độc đáo. Truyện được kể theo ngôi thứ ba, với điểm nhìn trần thuật có sự thay đổi từ điểm nhìn của người đi xa về tới điểm nhìn của người trong cuộc vì vậy nó vừa mang tính khách quan lại vừa chứa chan sự cảm thông với nhân vật. Ngôn ngữ văn xuôi mang đậm chất thơ cũng là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự lôi cuốn, sức hấp dẫn của tác phẩm.

Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một cái nhìn bao quát, toàn diện hơn về bức tranh cuộc sống của người dân vùng Tây Bắc. Trang văn ấy tuy đã khép lại nhưng dư âm của nó thì còn vang vọng mãi trong tâm trí. Và tuy Tô Hoài đã ra đi nhưng những tác phẩm nghệ thuật, những giá trị nhân văn của ông vẫn vẹn nguyên giá trị trong lòng bạn đọc hôm nay và cả mai sau.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây