Phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Thứ năm - 09/05/2024 22:13
Nhà văn Sedrin đã từng nhận định: “Văn học nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”

Phân tích nhân vật Mị - Bài làm 1

Nhà văn Sedrin đã từng nhận định: “Văn học nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Vậy điều gì đã làm nên sự trường tồn của các tác phẩm văn chương đáng quý đó? Phải chăng chính là ở tấm lòng và tư tưởng tất yếu ở người viết và chủ đề mà nó muốn hướng tới. Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm của nhà văn Tô Hoài muốn chứng minh sức mạnh của văn học. Đó là một bức tranh sống động về người lao động vùng cao Tây Bắc trước cách mạng. Để khắc họa chân thực qua quá trình thức tỉnh và vùng lên ấy, Tô Hoài đã viết những trang văn có sức lay động lòng người được truyền tải thông qua nhân vật Mị.

Nhắc tới Tô Hoài là nhắc đến một cây đại thụ tỏa bóng xuống rừng cây của nền văn học Việt Nam hiện đại. Văn Tô Hoài thiên về việc phản ánh sâu sắc sự thật cuộc đời và con người. Đó là cuộc đời sáng tạo, học hỏi bền bỉ và không ngừng nghỉ với số lượng tác phẩm chạm đến mức kỷ lục gần 200 đầu sách được ra đời. Một trong số đó không thể thiếu Vợ chồng A Phủ một tác phẩm được sáng tác năm 1952, in trong tập “tập truyện Tây Bắc”. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế tám tháng cùng với cán bộ vào giải phóng các dân tộc thiểu số từ khu du kích cho đến từng bản làng, có cơ hội được tiếp xúc trực tiếp với người dân, đồng bào nơi đây. Vợ chồng A Phủ ra đời như món quà tinh thần mà Tô Hoài muốn gửi gắm tới con người và mảnh đất này. Nhà văn quan niệm rằng “nhân vật là linh hồn và là trụ cột của tác phẩm”. Quả thật vậy, câu chuyện làm nền để nổi bật lên nhân vật trung tâm mà tác giả muốn khắc họa trước mắt người đọc nhân vật Mị, linh hồn của tác phẩm.

Mị được tác giả tái hiện lên mang nhiều phẩm chất đáng trân trọng, Mị là cô gái yêu tự do, là cô gái hiếu thảo, tài năng và khao khát sống. Tuy nhiên lại là một vật thế mạng cho món nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ để lại, buộc lòng Mị bị bắt trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Từ lâu Mị đã ý thức được việc này và muốn lên tiếng tố cáo hủ tục từ lâu của người dân Tây Bắc. Mị không muốn bị bố bán con cho nhà giàu” để thấy được cô là một người có nhận thức sâu sắc về cuộc sống, Mị chấp nhận làm nương ngô cả đời cũng được nhưng dù thế nào cũng không về nhà thống lí làm dâu để gạt nợ.

Mị cảm thấy tủi nhục, bất hạnh, cuộc sống cô trở thành một màu xám xịt: “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc” từ khi bị bắt phải làm dâu nhà thống lí. Nhiều khi Mị còn có ý định ăn lá ngón để tự tử nhưng nghĩ đến cha khiến Mị không đành lòng chết mà phải tiếp tục sống để trả nợ cho cha. Nhìn bề ngoài là hành động tiêu cực nhưng thực chất lại là hành động thể hiện sự kháng cự, sức mạnh tiềm tàng, muốn vùng dậy đấu tranh để giải thoát cho kiếp thân mình của Mị. Thời gian thấm thoát thoi đưa, sức mạnh, sự cự tuyệt trong Mị ngày một tiêu tàn, Mị trở nên lầm lì, chai sạn với những nỗi đau. Hình ảnh người con gái ấy hiện lên với vẻ mặt “buồn rười rượi”. Mị phải làm việc quần quật, những công việc lặp đi lặp lại liên chân liền tay chẳng bằng con trâu, con ngựa “làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ”. Mị bị giam hãm trong không gian tối tăm: “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng, dường như chẳng còn có khái niệm về thời gian. Ở trong phòng thiếu ánh sáng như thế, nhiều lúc Mị đã nghĩ rằng cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.

Cứ ngỡ rằng Mị sẽ tồn tại trong trạng thái rũ rượi như cái xác không hồn trong nhà thống lí nhưng không khí của mùa xuân ùa về đã đánh thức tâm hồn và lòng yêu đời của Mị khát khô hi vọng sống của cô. Tiếng sáo đem theo âm hưởng bồi hồi, tha thiết, rạo rực khơi gợi miền ký ức trong quá khứ của Mị, Mị nhớ về cuộc sống tự do trước kia của mình trước, khi còn được tự do bay nhảy, thổi sáo, hát ca, nhảy múa. Mị nhẩm thầm tiếng sáo vi vu:

“Mày có có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”.


Tiếng sáo có sức quyến rũ đến diệu kì, thao thức cả một tâm hồn. Tiếng sáo ấy đưa Mị trở về, làm tâm hồn Mị trỗi dậy một cách lạ thường, Mị như được sống lại một lần nữa với những cảm xúc của một thời tuổi trẻ. Mị không còn “lùi lũi”, cam khổ chịu đựng, Mị như được sống thế giới mới, được thoát khỏi cái vỏ bọc sống đúng là chính mình. Mị uống rượu“uống ừng ực từng bát”, mượn rượu làm chất xúc tác để giải tỏa tâm trạng để rồi khi say “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng tâm hồn Mị, Mị cũng muốn nhảy, múa hát, cũng muốn quay về cuộc sống ngày trước”. Không khí của những đêm tình mùa xuân đến lại đem về cho nàng cảm xúc lạ thường, cảm xúc phơi phới và “đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị ý thức được rằng tuổi trẻ của mình đang tới và muốn được rong chơi, được tận hưởng tuổi xuân của mình như bao người khác. Mị chải chuốt đầu tóc gọn gàng xinh đẹp, lấy ống mỡ bỏ vào ống đèn cho sáng, xúng xính váy áo  tinh tươm để chuẩn bị tâm thế đi du xuân. Hành động ấy của Mị đã thể hiện sự thôi thúc, tuổi xuân hồi sinh, mong muốn khát vọng được tung tăng, tự do như thời ngày trước, gồng lên trước thực tại phũ phàng luôn mang trong mình một sức sống mãnh liệt.

Nhưng giữa lúc khát khao bùng lên mãnh liệt thì A sử đã vùi dập nó một cách không thương tiếc. A Sử biết rằng Mị muốn đi chơi nên đã xách thúng sợi đay, A Sử buộc hết tóc của Mị quấn luôn cột để Mị chẳng thể cúi đầu, hay nghiêng ngả được. Dù bị trói ngoài thể xác nhưng chẳng thể nào trói được tâm hồn của Mị. Tiếng sáo văng vẳng trong không gian khiến “Mị vùng bước đi” để chạy theo với tiếng sáo, để được du xuân, để được quay về những tháng ngày đẹp đẽ ngày xưa nhưng Mị chẳng thể kháng cự lại được vì tay chân đau bị trói chặt. Tác giả Tô Hoài lúc này đang tái hiện lại chân thực diễn biến tâm trạng của Mị trong 

Tưởng chừng như Mị mãi mãi sống trong cảnh câm lặng tủi hờn nhưng không, một lần nữa Mị lại thức tỉnh trong đêm đông và có hành động táo bạo, mạnh mẽ cắt dây cởi trói cho A Phủ. Những ngày đông trên núi cao u ám và buồn, không chỉ thế mà còn thêm cái rét cắt da cắt thịt của gió đông. Đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa, hơ tay, hơ chân không biết bao lần. Thói quen của Mị là vậy. Cũng tại đây, Mị bắt gặp A Phủ - nột nạn nhân của cha con thống lí bị trói đúng đến gần chết vì để hổ ăn mất nửa con bò. Hoàn cảnh bi thương đã tác động mạnh mẽ tới Mị. Từ đó tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong tâm tưởng cũng như nhận thức của Mị. Sự thay đổi lớn về mặt tình cảm của Mị khi  nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đây là một trong những chi tiết nghệ thuật đắt giá đã đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ trong Mị. 

Mị nhận ra hoàn cảnh hiện tại của mình khi nhìn thấy giọt nước mắt kia của A phủ. Mị chợt nhận ra bản thân mình trong đêm mùa xuân khi bị A Sử trói quấn cả tóc vào cột nhà, đau không chống cự lại nổi. Mị lại thêm đồng cảm với A Phủ:”Trời ơi, chúng nó trói người đến chết mất thôi”. Hai chữ “Trời ơi” tuy ngắn nhưng đủ hiểu được Mị đã và đang có sự chuyển biến về mặt tình cảm. Từ một con người dửng dưng vốn đã chai lì với thực tại tàn khốc nay tâm hồn ấy sống lại, ý thức dần được tội ác kinh hoàng của nhà thống lí. Mị vốn bị bắt về làm dâu nhà này thì dù sớm hay muộn cũng kết thúc cuộc đời tại đây. Đó là số phận định đoạt của Mị rồi. Nhưng còn A Phủ thì sao? Chẳng phải chúng làm vậy là quá tàn ác hay sao? Trong đầu Mị lúc đó hiện ý nghĩ về cuộc đời: Cuộc đời Mị bị đày đọa một cách bất công, cuộc đời A Phủ bị trói oan và cuộc đời của người chị dâu đã chết trong căn nhà này. Mị ở đây và càng lúc càng nhận thức được tội ác kinh hoàng của nhà Thống Lí, rằng chúng quá tàn nhẫn khi đối xử với một kiếp người như vậy. Cũng từ đây, Tô Hoài như hoàn toàn nhập tâm vào Mị để bộc lộ chân thật tâm trạng và suy nghĩ ẩn sâu được cài cắm đan xen trong lòng của nhân vật Mị.

Chỉ khi có suy nghĩ đúng thì mới dẫn tới việc có hành động đúng. Từ tình thương người, Mị nhận ra ràng việc A Phủ chết ở đây là hoàn toàn không công bằng. Và ”Bọn chúng thật độc ác”, sự căm phẫn dành cho tội ác. Đó là sự thay đổi về nhận thức của Mị. Nhưng lúc này, Mị vẫn còn đang bị kiểm soát bởi con ma nhà Thống Lí “Đám than đã vạc hẳn lửa”. Trong lúc này đang diễn ra quá trình đấu tranh nội tâm sâu sắc và rất phúc tạp. Nếu MỊ giải cứu cho A Phủ, thì Mị sẽ hoàn thành được mong muốn của mình  nhưng nếu sau đó bị bắt gặp, Mị sẽ bị trói thay vào chỗ A Phủ. Nghĩ tới hoàn cảnh này, Mị không còn thấy sợ nữa. Lòng người đã khát khao tự do thì sẽ nhất định chiến thắng được con ma nhà thống lí và nỗi sợ hãi bao lâu nay của Mị. Ngọn lửa hi vọng sau thời gian ấp ủ của Mị giờ đây đang được thổi bùng lên. 

Thời điểm bấy giờ Mị cũng không còn sợ như trước, chẳng chút phân vân do dự nào, Mị rút con dao nhỏ cắt dây mây ra cắt dây trói cho A Phủ và chỉ kịp thốt lên: “Đi ngay!” Nhịp văn nhanh, gấp gáp, đã khiến người đọc tưởng tượng ra khung cảnh mà tâm trạng của Mị lúc này thảng thốt, hoảng sợ và vô cùng căng thẳng. Khi thấy A Phủ chạy xuống chân núi “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Vốn dĩ, Mị  đã mang trong mình khát khao tự do, Mị dám vượt qua con  ma nhà thống lí thì hà cớ gì lại không thể chạy theo A Phủ, từ bỏ những đau buồn phía sau? Rồi Mị chạy theo A Phủ thật. Câu văn chỉ có sáu chữ được đứng ngay ở trọng tâm xoáy sâu vào tình huống Mị đấu tranh tư tưởng nên đi hay ở lại. Một lần nữa Mị đấu tranh nội tâm gay gắt nên đi hay ở lại. Nếu Mị chọn ở lại, nhà thống trí sẽ bắt Mị, lại trói Mị như trước kia và cuộc đời Mị lại trở thành địa ngục trần gian.  Chỉ có cách này thì cô gái ấy mới có thể giải thoát được chính cuộc đời đen tối của mình. Rồi Mị quyết định vùng chạy theo A Phủ thật ”Ở đây thì chết mất”, Mị đã nhận thức được sự thật rằng cuộc đời mình sẽ trở nên đau khổ và lụi tàn như thế nào khi tiếp tục ở lại. Qua hành động này để thấy được sức sống tiềm tàng và khát khao sống mãnh liệt của cô gái trẻ.

Có thể cho rằng, hành động cắt đứt dây, cởi trói cho A Phủ là hành động tuy bất ngờ, táo bạo nhưng lại hoàn toàn hợp lý với diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị. Nếu như Mị đã từng vô cảm, dửng dưng trước những tình cảm của người khác, bởi cô ấy cho rằng họ cũng chẳng khác gì mình, cũng chịu đau đớn do cái ác của bọn nhà thống lí gây ra thôi, cô đã chai li với hình ảnh ấy. Bản chất con người Mị vẫn là một con người ham sống, khao khát được tự do, căm ghét cái ác và sẵn sàng đứng lên đấu tranh. Hình ảnh cô gái Mị cầu xin cha để không bị bán cho nhà thống lí, hành động muốn ăn lá ngón để kết liễu cuộc đời mình hay những bước chân vùng vẫy trong đêm tình mùa xuân mặc cho sợi dây trói siết chặt, cứa vào tay chân, đầu cổ nhưng chẳng gì có thể ngăn được một con người ý chí như cô. Hành động cởi trói của Mị được đánh giá  là một chi tiết đắt giá đã đánh dấu bước chuyển lớn trong diễn biến tâm lí của Mị.

Với hành động táo bạo ấy, nhà văn Tô Hoài đã ngợi ca sâu sắc khao khát sống mãnh liệt của nhân vật. Ông đồng cảm, xót thương cho số phận Mị nói riêng cũng chính là số phận của con người vùng cao nói chung. Qua tác phẩm ta có thể cảm nhận sâu sắc tính cảm của Tô Hoài dành cho từng nhân vật. Không chỉ thế còn phê phán, lên án tội ác của cha con thống lí, tội ác của thế lực phong kiến đã dồn con người tới bước đường cùng. Tác phẩm “” Vợ chồng A Phủ” chính là bức tranh sinh động miêu tả cuộc đời bất hành và cùng với đó ngợi ca sức mạnh tiềm tàng, khao khát sống một cuộc đời tự do, hạnh phúc của người dân lao động vùng miền núi. Nhà văn đã sử dụng những ngôn từ trong sáng, giản dị,  gần gũi làm nên thiên truyện của mình đến gần hơn với người đọc. Kết hợp cùng với lối kể chuyện sinh động, lôi cuốn và linh hoạt, giọng điệu đầy chất thơ càng làm nổi bật lên tác phẩm. Tác giả như hóa thân vào nhân vật, xây dựng tâm lí nhân vật một cách xuất sắc, cùng các tình huống chuyện được tạo dựng vô cùng đặc sắc. Tất cả đã tạo nên tầm vóc của nhà văn lớn mang danh Tô Hoài.

Nhà văn Nga Ai-ma-top đã từng cho rằng: “Tác phẩm chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi các câu chuyện về nhân vật đã kết thúc.” Vợ chồng A Phủ đã khép lại nhưng vẫn để lại trong lòng người đọc những dấu ấn rất riêng về phẩm chất và vẻ đẹp của con người. Qua truyện ngắn cũng truyền cho ta niềm tin vào cuộc sống, khao khát được sống bởi sứ mệnh của con người là sống chứ không phải chỉ để tồn tại một cách vô nghĩa.
 

Phân tích nhân vật Mị - Bài làm 2

Tô Hoài là nhà văn lớn đã đóng góp nhiều thành tựu xuất sắc cho nền văn xuôi hiện đại nước nhà. Nếu như tập truyện “Dế Mèn phiêu lưu ký” đã đánh dấu sự thành công sự nghiệp của ông thì Vợ chồng A Phủ  đã đưa tên tuổi của ông lên tầm cao mới. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn trích trong tập truyện Tây Bắc của ông. Tác phẩm mang rất nhiều giá trị tư tưởng lớn cả giá trị hiện thực và nhân đạo. Trong truyện, Tô Hoài đã gửi gắm trọn vẹn tình cảm của mình và tái hiện lại cho người đọc về cuộc sống của người dân lao động vùng miền núi, dưới ách thống trị tàn ác của bọn cai quản miền núi. Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Mị qua nhiều nét đẹp, phẩm chất khác nhau, qua đó ngợi ca sức sống mãnh liệt và vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân Tây Bắc .

Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện đã từng được trao tặng giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1955. Nhà văn viết tác phẩm sau khi đi chuyến đi thực tế cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952, thực mắt chứng kiến, tiếp xúc với đời sống nhân dân nơi đây. Mở đầu tác phẩm, Tô Hoài đã đặc cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và  gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

Ngay phần mở đầu, nhà văn đã tạo ra những hoàn cảnh khó khăn, hình ảnh Mị hiện lên với hình ảnh lầm lũi, buồn tủi. Chính cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái cô đơn lẻ loi như vậy có phải dụ ý nhằm dự báo trước số phận cuộc đời của Mị đầy những uẩn khúc, bi kịch hay không? Cớ sao một cô gái người dân tộc Mông tài sắc vẹn toàn, có tài thổi sáo”cô giỏi sáo và giỏi, uốn chiếc lá trên môi, nhiều chàng trai si mê theo đuổi cô gái ấy. Một cô gái tài sắc vẹn toàn như vậy đáng ra phải được yêu thương, phải được sống trong cuộc sống hạnh phúc cơ sao phải sống trong hoàn cảnh trớ trêu như vậy. 

Bởi vì lẽ thương cha, muốn cứu nạn, đỡ nợ giúp cho cha, cô gái ấy - một người con hiếu thảo dù không muốn nhưng buộc lòng chấp nhận đi làm con dâu  để gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Tô Hoài đã khắc họa nỗi cơ cực cả về thể xác của Mị dưới danh nghĩa là con dâu, nhưng thực chất chẳng khác gì một tay sai, một người làm trong nhà thống lí. Thân phận Mị bị đưa đẩy, phải sống chui sống lủi, làm việc quần quần không bằng thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”.  Nhà văn Tô Hoài còn khắc họa nổi bật nỗi đau khổ về tinh thần của Mị. Một cô Mị mới hồi nào còn vô tư, hồn nhiên, khát khao đắm mình trong tình yêu đôi lứa, mà bây giờ chỉ lủi thủi, im lặng ngày qua ngày, lầm lì, lùi lũi trong xó nhà, lặng câm chẳng nói lời nào, vẻ mặt buồn rười rượi hiện rõ lên mặt Mị. Căn buồng Mị ở giống như một địa ngục trần gian tách biệt Mị với thế giới bên ngoài, ánh sáng lọt vào chỉ qua một lỗ vuông nhỏ. Qua điều này để thấy được nét đáng thương, bất hạnh của nhân vật Mị cũng chính là hiện thân của đồng bào dân nghèo Tây Bắc muốn tố cáo chế độ phong kiến miền núi cầm giữ con người một cách tàn bạo vô cùng.

Cô gái xinh đẹp ấy đã từng có ý định muốn chết mà không được chết, vì Mị vẫn còn đó món nợ của người cha. Sự tồn tại của Mị trên cõi đời này trở nên vật vờ, vô nghĩa, hoàn cảnh Mị lúc này đáng thương hơn ai hết. Muốn từ giã cuộc đời nhưng vẫn muốn chống lại cuộc sống không ra gì, Mị chẳng còn điều gì thiết tha với cuộc đời này cả, dù làm gì Mị cũng chỉ như một cái xác vô hồn, làm việc quần quật cả ngày lẫn đêm. Sức sống tiềm tàng trong Mị dần bị vơi bớt đi. Những ẩn sâu bên trong cái hình hài một con người đau khổ kia vẫn lóe lên khát vọng hạnh phúc chẳng thể nào tiêu tan, bùi lấp trong tâm hồn đã chai lì từ lâu ấy. Nó chỉ đang chờ đợi thời thuận lợi để có thể bùng lên, cháy lên để được chìm đắm trong tiếng gọi của tình yêu trong đêm xuân tình ái.  

Dường như cuộc đời của Mị lúc này vẫn cứ chỉ mãi nằm trong cái vòng luẩn quẩn, cùng quẫn ấy, sự phản kháng vùng vẫy của Mị đã làm chai lì đi tâm hồn đẹp đẽ của Mị. Nhưng sâu trong nó vẫn âm ỉ một lớp vỏ bọc, một tia sáng sức mạnh lóe lên trong bóng tối u khuất. Mùa xuân đến người ta nô nức chuẩn bị tâm thế đón một năm mới sang.  Bức tranh Hồng Ngài hiện lên  làm say say đắm bao tâm hồn. Cái se lạnh của gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, hương sắc diệu kỳ của các loài hoa đẹp đã hưng phấn thức tỉnh sự vui tươi, háo hức của Mị. Chính cái tiếng sáo hồ hởi thức dậy trong tâm hồn Mị một chút niềm vui sống, thường ngày Mị chẳng thiết nói năng, khi nghe tiếng sáo Mị lại nhẩm hát theo tiếng sáo du dương lại nhớ về những kỉ niệm thời mình còn được tự do. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị uống từng bát, “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái men say rượu là chất xúc tác giúp Mị quên hết những đau khổ hiện tại, mà đắm chìm trong niềm vui, nhớ về ngày mình còn được tự do, nhớ về cái thời mình tự do tự tại “nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu lúc nào cũng không hay”, “ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …” Mị tận hưởng giây phút tươi vui còn sót lại trong cuộc sống bất hạnh của bản thân mình, tự tạo những niềm vui ngày xuân để quên đi nỗi đau khổ mà mình phải trải qua đằng đẵng từ trước tới giờ. Tâm hồn Mị dần dần vực dậy sau chuỗi ngày đen tối, Mị bắt đầu ý thức được mình còn trẻ trung, vẫn còn khao khát những niềm vui của cuộc sống. Dường như chính âm thanh tiếng sáo gọi mời, đánh thức tâm hồn cô quạnh, đã vốn chai lì với những nỗi đau. Đó là âm thanh khiến “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước, đã hâm nóng ngọn lửa thanh xuân đã bị vùi dập tắt đi từ khi làm dâu nhà thống lí. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Mị lại muốn sửa soạn, mặc đồ đẹp, chải chuốt để đi chơi, để hòa vào không khí rộn ràng của ngày Tết. Nhưng ai thương cho Mị bây giờ khi A Sử đã dập tắt đi tất cả những háo hức, tươi vui của Mị. Hắn trói Mị lại chặt cứng vào cột nhà, cột tóc Mị dựng đứng lên khiến cô không thể cựa quậy. Rồi bỏ mặc Mị, đeo vòng bạc trang sức xúng xính áo quần đi chơi, để Mị chìm mãi trong trạng thái mơ về một thời xuân trẻ, lững thững hững hờ trong cảm giác được du xuân. Sợi dây trói buộc chẳng thể nào trói được giấc mộng ảo diệu của nàng ta về một buổi đi chơi du xuân hằng mong ước. Cảm giác trở về thực tại đau đến mức tàn khốc, dù vùng vẫy thế nào cũng không thoát ra được “Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, bắp chân bị dây trói siết lại, đau từng mảnh thịt”. Mị lúc này tự thương cho chính bản thân mình, cô muốn đứng lên phản kháng lại, một sức mạnh tiềm tàng cứ âm ỉ trong Mị. 

Đến với bối cảnh khác, Tô Hoài lại một lần khơi gợi sức sống tiềm ẩn sâu trong Mị qua hình ảnh cắt dây trói, giải cứu cho A Phủ. A Phủ cũng giống như Mị là nạn nhân của bọn thống trị miền núi. Và sau lần làm thuê vì mải săn bắn mà đã bị nhà thống lí trói đứng. Nhìn thấy hình ảnh của A Phủ, giọt nước mắt trên má chàng “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã đánh thức lòng thương cảm của Mị. Mị vốn cho rằng ai cũng như mình và chợt nhận ra hoàn cảnh thương cảm và xót xa cho cả chính phận bất hạnh của mình. Dòng nước mắt của Mị ngày trước và nước mắt của A Phủ lúc bấy giờ như hòa chung vào một. Đó là sự giao cảm của hai tâm hồn tìm được sợi dây nối kết, sự đồng cảm mãnh liệt. “ Chúng nó thật độc ác”. Trước đây vì sự mê muội, Mị an phận chịu đựng  cảnh bản thân bị hành hạ, giam cầm trong đầy những đau khổ, Mị dù tiềm tàng sức mạnh khao khát tự do nhưng vẫn còn mang cái vỏ bọc của chấp niệm “Ta là thân đàn bà, nó dắt ra về trình ma nhà nó thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”.. Còn A PHủ tại sao phải chết ở cái nơi này. Như Nam Cao đã từng nói, đây là  “cái sợ cố hữu” của người dân nô lệ. Dù sợ, Mị sợ rằng nếu cởi trói cho A Phủ thì trước sau gì Mị cũng phải thế chỗ A Phủ và bị trói ở đây mãi. 

Nhưng càng nghĩ, Mị lại quyết định rón rén cầm con dao nhỏ cắt lúa vào cắt sợi dây trói của A Phủ. Động lực nào đã xúi giục Mị hành động như vậy? Đó chính là cái  khát khao trong lòng Mị càng lúc lại càng rực cháy, khát vọng giải thoát bản thân và khát vọng về một cuộc sống tự do đã dồn nén, thúc đẩy Mị hành động một cách vô thức như vậy. Sức phản kháng mãnh liệt một lần nữa sôi sục trong người cô gái ấy để đấu tranh chống lại bọn thực dân phong kiến miền núi tàn bạo, man rợ. Hành động cắt dây trói của Mị là một hành động dứt khoát nhưng đã khiến Mị không khỏi suy nghĩ rất nhiều. Đó là một bước chuyển trong nhận thực của người con gái ấy. Điều này còn thể hiện sự đấu tranh tư tưởng trong Mị, sự giải thoát cho chính bản thân mình, cởi trói cho một cuộc đời bị áp bức, bóc lột, sống một cuộc đời bị giam hãm, mất tự do.

Rồi Mị dù có phân vân nên đi theo A Phủ hay ở lại, thì cuối cùng Mị đã chọn chạy trốn khỏi nơi địa ngục trần gian ấy, giải thoát cho bản thân và số phận bất hạnh của mình. Đi đến Phiềng Sa, Mị lúc này mới cảm nhận lại được sự hạnh phúc mà mình ao ước bấy lâu. Mị và A Phủ cố gắng chiến đấu dưới sự dìu dắt của đồng chí A Châu. Mị đã ý thức được đâu là kẻ thù của mình, Mị cũng chẳng còn sợ con ma nào nữa, bước tiếp mà sống cuộc đời của mình, ngân nga khúc ca mỗi độ xuân về.

Có thể cho rằng  linh hồn của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” một phần nằm ở tính cách, diễn biến tâm lý của nhân vật được nhà văn diễn tả tài tình. Qua bút pháp cá thể hóa và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình của nhà văn Tô Hoài, nhân vật Mị đã hiện lên với những nét đẹp phẩm chất vô cùng đáng trân trọng, là một cô gái xinh đẹp với nhiều tài năng, ẩn sau vẻ ngoài đó là một cuộc đời bất hạnh nhưng luôn mang trong mình sức sống tiềm tàng. Qua nhân vật Mị, ông muốn gửi gắm đến giá trị nhân đạo sâu sắc. Chính nhân vật Mị được nhà văn xây dựng là hiện thân của người dân lao động miền núi dưới quyền cai trị của bọn thực dân phong kiến miền núi.
 

Phân tích nhân vật Mị - Bài làm 3

Con người sinh ra vốn đã được tạo hóa ban tặng cho quyền được sống, được làm người và quyền được mưu cầu hạnh phúc. Ý thức được điều đó, khao khát được hòa mình vào cuộc sống, con người đã vượt qua mọi trở ngại khó khăn, thử thách để hướng tới một điều thật ý nghĩa: sự sống. Nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài cũng đã phần nào biểu hiện điều đó. Bằng sức sống mãnh liệt, lòng khát khao được sống, Mị đã can đảm và tìm thấy sự sống cho chính mình.

Mị là một cô gái xinh đẹp, chăm chỉ làm việc và có tài thổi sáo giỏi. Chính vì thế mà cô gái ấy là niềm khao khát, ước mơ của bao nhiêu chàng trai: “Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Có thể nói, cuộc sống của Mị đang trên đà đơm hoa kết trái, một cuộc sống mà ở tuổi của cô ai cũng phải ao ước. Thế nhưng bước ngoặt của cuộc đời Mị đã dần chuyển sang hướng khác khi cô trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Và người con gái đẹp ấy lại một lần nữa tỏ rõ tấm lòng hiếu thảo của một người con khi nghe lời cha, chấp nhận về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý.

Tiếng là con dâu nhà thống lý nhưng ai cũng thấy được cô con dâu chẳng khác gì kẻ tôi đòi, phải làm việc quần quật suốt ngày đêm. Hình ảnh Mị thật tội nghiệp như một “con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”, như “con trâu con ngựa nuôi trong chuồng, chỉ biết ăn cỏ, chỉ biết làm việc mà thôi”. Đối lập hoàn toàn với cha con nhà thống lý ăn chơi trác táng là hình ảnh cô Mị ngồi cạnh tàu ngựa, trước tảng đá, dù chẻ củi hay gánh nước từ dưới suối lên, lúc nào cũng cúi mặt buồn rười rượi. Sống trong nhà thống lý Pá Tra không phải là cô Mị trẻ trung, yêu đời như ngày xưa nữa. Chính thần quyền và cường quyền nhà thống lý đã giết chết tuổi thanh xuân, bóp nghẹt cuộc sống của Mị cả về thể xác lẫn tâm hồn. Lúc này, Mị không khác gì một cái xác không hồn vật vờ, làm việc như nữ nô, thành một kẻ hầu người hạ cho chồng mà có thể bị chồng đánh đập tùy hứng bất cứ lúc nào. Cuộc sống của Mị khép chặt trong căn buồng kín bưng, trông ra ngoài chỉ duy nhất có “một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.

Ý thức về cuộc sống của Mị dường như đã bị giai cấp phong kiến làm tê liệt. “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Điều này đã cho thấy con người nô lệ trong Mị vẫn còn sống, con con người thực của cô thì dường như đã chết. Mị không bày tỏ, không kêu than cũng không phản kháng gì, chỉ lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa và “chờ ngày chết rũ xương ở đây thôi”.

Thế nhưng, “ngoài đầu núi lấp ló, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi”. Ta tưởng chừng như cô Mị đã trở nên vô cảm vô hồn, chỉ biết chấp nhận kiếp sống đọa đày nhưng không phải. Chính tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân – biểu tượng của tình yêu và khát vọng sống – đã gợi dậy những sâu thẳm trong lòng Mị bấy lâu. “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát”. Cách uống rượu ấy như báo trước một cuộc nổi loạn mà chính bản thân Mị cũng chưa ý thức rõ: “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, còn Mị thì đang sống về ngày trước”. Chính những ngày tháng tuổi trẻ nghèo khó nhưng tự do, vui vẻ và hạnh phúc đã khiến cho lòng ham sống của Mị trỗi dậy: “Mị thấy phơi phới trở lại”. “Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo” và “Mị muốn đi chơi”. Từ chuyển biến trong suy nghĩ, Mị đã có một hành động thật ý nghĩa” “Mị đến góc nhà, lấy ống mở, xắn một miếng bỏ vào đền cho thêm sáng” và “với tay lấy cái váy hoa vắt ở vách” để chuẩn bị đi chơi. Hành động này có nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn, soi rọi cuộc sống tối tăm triền miên của quá khứ, và giờ đây Mị muốn bước ra khỏi cuộc sống tối tăm ấy, đến với tiếng sáo và những âm thanh rộn rã ngoài kia để được sống là chính mình.

Vậy mà nghiệt ngã thay, khi Mị toan bước đi thì bị A Sử kéo lại, chẳng nói chẳng rằng liền trói Mị vào cột nhà. Và bây giờ Mị khóc, khóc cho cái oan trái của một kiếp người khao khát muốn sống, muốn yêu mà lại bị ghì chặt vào một cuộc sống “không bằng con ngựa”. Men rượu làm cho Mị say, Mị mơ màng giữa ý thức và thực tại cho nên cô có ý định “vùng bước đi. Nhưng chân tay đau không cựa được. Mị không còn nghe thấy tiếng sao nữa”. Chính thực tại đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Kết cực ấy nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát thì nhân vật không thể tự giải thoát cho mình, đồng thời nó cũng bắt đầu khơi dậy cho những cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật.

Ngọn lửa khao khát sống trong cô Mị thực sự bùng cháy khi tự tay cô cởi trói cho A Phủ. Chứng kiến cảnh A Phủ bị đánh đập dã man, và hình ảnh “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã khiến cho Mị chợt nhớ lại cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cái cột thế kia, cũng nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ mà không cách nào lau đi được. Chính từ đó đã làm trỗi dậy trong Mị tình thương những người cùng cảnh ngộ. Mị đã thấy được cái bất công phi lý, sự tàn ác của cha con nhà thống lý và không muốn thấy thêm một cái chết oan ức, cho nên cô đã cởi trói cho A Phủ. Rõ ràng Mị đã suy nghĩ kỹ, đã lường trước những gì sẽ xảy ra. Cô đã sẵn sàng chịu trói và chịu chết thay cho A Phủ vì cô nghĩ rằng, chỉ có chết thì cô mới có thể được giải thoát khỏi kiếp sống tù, đớn đau nhục nhã này. Nhưng không phải. Khi thấy a Phủ chạy đi rồi, chạy đến một cuộc sống tự do, thì Mị bừng tỉnh hẳn. Mị không muốn chết nữa mà Mị muốn sống, phải sống cho nên “Mị vụt chạy ra” theo A Phủ. Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng giải thoát luôn cho chính mình.

Qua việc khắc họa nhân vật Mị, Tô Hoài cũng đã phần nào tố cáo chế độ thống trị của bọn chúa đất, địa chủ phong kiến, ca ngợi phẩm chất cao đẹp của những người nông dân miền núi hiền lành, chất phác. Họ biết yêu cái đẹp, trọng lẽ phải để rồi vượt lên tìm lại chính mình.

Sức sống của nhân vật Mị được Tô Hoài khắc họa hết sức tài tình, độc đáo. Từ một con người dường như đã bị mất hết sức sống, nhưng với một nghị lực phi thường, một lòng ham sống mãnh liệt, Mị đã tìm thấy cuộc sống cho bản thân mình và dám đấu tranh với những thử thách để rồi vượt qua. Thật vậy, Nguyễn Khải cũng đã từng triết lý: “Ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để vượt qua những ranh giới ấy”. Con đường vượt qua những ranh giới của nhân vật Mị phần nào đã chứng minh cho chân lý ấy.
 

Phân tích nhân vật Mị - Bài làm 4

Vợ chồng A Phủ là một câu chuyện có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, tác phẩm đã khái quát được con đường đi, sự đổi đời của nhân dân Tây Bắc sau Cách mạng bằng những thủ pháp nghệ thuật độc đáo, sống động và đặc sắc là một tấm lòng sâu nặng đối với các dân tộc miền núi anh em. Năm 1952, Tô Hoài theo bộ đội chủ lực, tiến quân vào miền Tây, dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc. Nhà văn đã kể về những ngày tháng ấy, "cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi là đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhờ cho tôi nhiều quá... Đó là một ám ảnh mạnh mẽ thúc đẩy tôi sáng tác". Truyện Vợ chồng A Phủ đã được ra đời trong hoàn cảnh ấy. Tác phẩm viết về đồng bào Mèo trong quá trình đấu tranh giành quyền sống tự do, hạnh phúc đã phải nếm trải bao đau thương, tủi nhục, cay đắng. Họ đấu tranh để được giải phóng khi gặp cách mạng. Sự đổi đời của nhân dân Tây Bắc trong bối cảnh cuộc kháng chiến của dân tộc. Đến Tây Bắc, Tô Hoài có thêm những người bạn mới là Mị và A Phủ, và cách kể chuyện sắc sảo của nhà văn, họ đã trở thành những nhân vật văn học sinh động, những số phận được sáng tạo, nâng lên từ cuộc sống. Mị và A Phủ là hai hình tượng có tính sóng đôi, bổ sung cho nhau. Họ có cuộc đời riêng nhưng cùng chung cảnh ngộ. Trong đó, Mị được nhà văn chú ý miêu tả, khắc họa hết sức rõ nét bằng cách khai thác đời sống nội tâm của nhân vật.

Mị là một cô gái miền núi xinh đẹp và có tài thổi sáo. "Mi uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khúc". Nhiều người say mê Mị "Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị". Nhưng vì nghèo, Mị không có được hạnh phúc như mình mong ước... về làm dâu để trừ nợ cho cha mẹ trong nhà thống lý Pá Tra. Mị sống như một kẻ nô lệ, bị chiếm đoạt sức lao động, nhan sắc và cả cuộc đời con gái bị vùi dập đau đớn, Mị muốn tự tử nhưng vì thương cha, Mị không đành lòng chết. Thế là sự phản kháng yếu ớt tuyệt vọng ấy đã tiêu tan.

Quay trở lại nhà thống lý, người con gái hiếu thảo ấy đành buông xuôi cho số phận theo một quy luật thích nghi nghiệt ngã: "Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Thậm chí còn khổ hơn cả con trâu con ngựa. "Con trâu, con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc củ đêm cả ngày". Và từ đó Mị sống như cái xác không hồn, "Mị cúi mặt không nghĩ ngợi gì nữa", lúc nào "cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi".

Nhà thống lý Pá Tra giàu có, kẻ hầu người hạ rất nhiều, Mị là con dâu nhưng cũng chỉ là nô lệ, chỉ là một công cụ lao động biết nói. Hơn thế nữa, Mị chẳng biết nói với ai, Mị như một con vật không cần ánh sáng. "Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Mị hoàn toàn đối lập với không gian bao la rộng mở của bầu trời vùng núi, rộn ràng âm thanh và rực rỡ màu sắc. "Ớ cái buồng Mị nằm, kín nút, có một chiếc cửa số một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng". Và Mị sẽ sống ở đó cam chịu "đến bao giờ chết thì thôi".

Trong suốt nửa đầu tác phẩm, người đàn bà ấy gần như lặng câm, sống âm thầm cô độc, tối tăm nhẫn nhục, không mảy may hi vọng có sự đổi thay. Nhưng có lúc hoàn cảnh không thể dập tắt được sức sống, muốn sống trong yêu  thương vẫn âm ỉ cháy trong đáy sâu tiềm thức của Mị.

Những đêm tình mùa xuân tới, nghe tiếng sáo thổi gọi bạn đầu làng, tiếng sáo thiết tha bồi hồi, Mị hát thầm theo tiếng sáo. Những lúc này "lòng Mị đang sống về ngày trước". Quá khứ của thời con gái hiện về, sung sướng tự do. Mị lén lấy rượu uống "ực từng bát" để quên buồn, quên đi thực tại hay để có đủ can đảm phản kháng thực tại? Mị quyết định đi chơi, "Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách", một sức sống tiềm ẩn đã bùng lên mạnh mẽ, Mị còn trẻ lắm, Mị phải sống như khát vọng thúc giục. Nhưng sự trỗi dậy ấy, một lần nữa, lại bị sự ràng buộc khắc nghiệt của hoàn cảnh, A sử trói đứng Mị vào cột nhà một cách tàn nhẫn, lạnh lùng. Trong tình trạng đau đớn về thể xác ấy, lạ thay, "Mị vẫn nghe tiếng xáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi". Đến nỗi Mị đã quên đi cảnh bị trói bi thẳm của hiện tại, "Mị vùng bước đi, nhưng tay chân đau không cựa được".

Như vậy, trong cái thâm u, tối tăm của cuộc đời Mị, luôn có những cơn sóng ngầm phản kháng. Và cơn sóng mạnh mẽ cuối cùng là hành động cắt dây trói cho A Phủ. Với đoạn văn hay nhất của truyện này, Tô Hoài đã tỏ ra rất chặt chẽ trong bố cục, tài tình trong việc sắp xếp các tình huống, thể hiện tâm lí, hành động của nhân vật một cách hợp lý, thuyết phục.

A Phủ bị trói đứng bên góc nhà, gần nơi Mị thường thức dậy sớm để sưởi lửa. Đã mấy đêm liền, Mị thấy A Phủ đứng đó "mát mở trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống". "Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay". Lúc này, Mị chỉ biết có mình và ngọn lửa, Mị còn thờ ơ với tất cả. Nhưng rồi trong cái đêm cuối cùng ở Hồng Ngài ấy, qua "ngọn lửa bập bùng sáng lên", Mị đã thấy "một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai mõm má đã xám đen lụi" trên khuôn mặt A Phủ. Dòng nước mắt ấy đã khơi gợi cho Mị nhớ về ngày trước. Mị cũng bị trói đứng như thế, Mị khóc "nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được". Dòng nước mắt của Mị ngày trước và dòng nước mắt của A Phủ lúc này tưởng chừng như hòa làm một, nó tạo thành sự cảm thông đau đớn và bùng cháy một thái độ căm thù mãnh liệt. "Chúng nó thật độc ác". Trước đây vđi sự mê tín mông muội, Mị chịu yên phận trong cuộc sống đau khổ, bây giờ Mị cũng nghĩ thế. "Ta là thân đàn bà, nó đã dắt ta về trình ma nhà nó thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế". Nhưng nếu giải cứu cho A Phủ đi, Mị sẽ bị trói vào đây, chỉ nghĩ đến điều ấy, Mị đã cảm thấy sợ. Nói như Nam Cao trước kia, đó là "cái sợ cố hữu" của những người nông dân nô lệ.

Nhưng rồi một hành động vô thức, "Mị rón rén bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây". Đến lúc sực tỉnh, Mị mới hốt hoảng sợ hãi... Động lực nào thúc đẩy Mị hành động như vậy? Trong logic phát triển của tính cách nhân vật, ở tình huống này, tác giả đã dẫn dắt chi tiết một cách hợp lý độc đáo. Người đọc chỉ có thể giải thích sức mạnh thúc đẩy Mị hành động lúc này là tình cảm của những người cùng cảnh ngộ, là sự giao hòa hai dòng nước mắt của hai số phận nhưng cùng chung kiếp đời nô lệ đau xót.

A Phủ chạy đi, "Mị đứng lặng trong bóng tối". "Rồi Mị cũng vụt chạy ra", chi tiết nhỏ này đã thể hiện được cả cơn sóng gió trong tâm hồn Mị lúc này. Trước khi cứu A Phủ, chưa bao giờ Mị nghĩ rằng mình sẽ đi theo A Phủ. Nhưng đứng trước cái chết, bản năng sinh tồn trong con người Mị trỗi dậy, nó mạnh hơn tất cả, mạnh hơn thái độ cam chịu nhẫn nhục, nó có mạnh hơn cả "con ma nhà thống Lý". Trước tình huống này Mị chỉ còn một con đường, phải chạy theo A Phủ để được sống, Mị có biết đâu, khi cầm con dao cắt sợi dây mây để cở trói cho A Phủ cũng chính là lúc Mị tự cởi trói cho cuộc đời mình. Họ đã cứu sống nhau, đã tự giải phóng cuộc đời bằng sự quật khởi của chính mình.

Đến Phiềng Sa, có vợ chồng Mị mới biết được thế nào là hạnh phúc, gia đình Mị và A Phủ còn phải chiến đấu với bọn thực dân dưới dự dìu dắt của A Châu vì Mị đã biết được ai là kẻ thù của mình. Mị cũng không còn sợ con ma nhà thống lý. Mị ngẩng khuôn mặt lên khi làm việc và lại hát những bài tình ca mỗi độ xuân về. Sự đổi đời của Mị và A Phủ khi đến Phiềng Sa cũng chính là sự đổi đời của nhân dân Tây Bắc trong cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc.

Viết Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã chứng tỏ sự lão luyện của một nhà văn hiện thực trong việc xây dựng điển hình, khẳng định một cách nhìn mới về hiện thực. Đó cũng chính là kết quả của một quá trình chuyển biến đến độ chín muồi của  tư tưởng, tình cảm nhà văn. Vợ chồng A Phủ là một câu chuyện có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, tác phẩm đã khái quát được con đường đi, sự đổi đời của nhân dân Tây Bắc sau Cách mạng bằng những thủ pháp nghệ thuật độc đáo, sống  động và đặc sắc là một tấm lòng sâu nặng đối với các dân tộc miền núi anh em.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây