Phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến

Thứ bảy - 06/04/2024 10:13
Tam nguyên Yên Đổ cũng là người có nhiều bài thơ mang ý vị tự trào vào loại hay và tiêu biểu nhất trong văn học dân tộc.

Phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy - Bài làm 1

Tam nguyên Yên Đổ cũng là người có nhiều bài thơ mang ý vị tự trào vào loại hay và tiêu biểu nhất trong văn học dân tộc. Tiến sĩ giấy chính là một trong những tác phẩm như vậy. Bài thơ thể hiện tài năng nghệ thuật của một tác gia trào phúng bậc thầy và mang ý nghĩa thời đại rõ rệt.

Xã hội mà Nguyễn Khuyến sống là xã hội thực dân nửa phong kiến với những biểu hiện lố lăng, kệch cỡm. Ở đó mọi giá trị đạo đức truyền thống đã bị đảo lộn, còn cái mới lại mang bộ mặt của kẻ xâm lược. Ngòi bút thâm trầm mà sâu cay của Nguyễn Khuyến đã chĩa mũi nhọn vào những chỗ hiểm yếu nhất của cái ung nhọt đó. Trong Tiến sĩ giấy nhà thơ đã đem ra trào phúng, châm biếm, hạ bệ thần tượng cao nhất của cả một thể chế xã hội đã tồn tại hàng mấy trăm năm – ông tiến sĩ. Đây là một nhân vật rất quen thuộc của xã hội phong kiến Việt Nam.

Đạt đến học vị tiến sĩ là niềm vinh quang không chỉ của bản thân từng con người mà của cả một dòng họ, một địa phương, được cả xã hội vinh danh, khoác lên mình những ánh hào quang chói lọi. Đó vốn là những con người có tài năng, chứa đựng trong mình những tri thức của thời đại và tất cả những tài năng và tri thức đó sẽ được đem ra để phục vụ đất nước, phục vụ xã hội.

Đã có biết bao ông tiến sĩ trở thành trụ cột của đất nước, của dân tộc, trở thành nguyên khí quốc gia, được ghi tên tuổi, công trạng trên bia đá, sử xanh. Nhưng đến thời đại của Nguyễn Khuyến mọi chuyện đã thay đổi, những giá trị truyền thống đã dần mai một, hoặc đang từng bước đổ vỡ. Nho học, khoa cử đã xuống cấp, không còn được coi trọng, mọi thứ đã có thể dùng tiền để mua bán, đổi chác, xuất hiện trong xã hội nhiều kẻ chỉ có hư danh mà không có thực học. Kẻ có thực tài, chữ nghĩa đầy mình thì học vị tiến sĩ chỉ còn là cái danh hão, cũng đành khoanh tay ngồi nhìn thời cuộc xoay vần, kiến thức sách vở cũ rích không còn có ích lợi gì trong một bối cảnh mới. Tất cả những điều đó đã được Nguyễn Khuyến thể hiện trong bài thơ Tiến sĩ giấy bất hủ của ông.

Nhìn trên ý nghĩa bề mặt văn bản bài thơ có thể thấy đối tượng mà Tam nguyên Yên Đổ hướng tới để tạo nên tiếng cười là những đồ chơi dân gian – hình nộm ông tiến sĩ làm bằng giấy dành cho trẻ con trong những dịp tết trung thu. Làm loại đồ chơi này, các nghệ nhân dân gian muốn khơi dậy ở trẻ em lòng hiếu học và ý chí phấn đấu để đạt tới vinh quang của nền học vấn thời đại, cống hiến tài năng cho đời, đem lại niềm vui cho ông bà, cha mẹ, vinh quang cho dòng họ, tổ tiên. Như vậy, hình ảnh ông nghè tháng Tám là một hình ảnh mang tính truyền thống rất đẹp. Ở hai câu đề, Nguyễn Khuyến chưa nói thẳng cho người đọc biết rõ người được ông giới thiệu trong bài thơ là ai. Nhân vật này có đủ cờ, biển, cân, đai, lọng xanh, ghế chéo đích thị là một vị tiến sĩ oai phong mới được ghi danh đỗ đầu trên bảng rồng:

Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.


Biển là tấm gỗ sơn son thếp vàng có khắc bốn chữ "ân tứ vinh quy". Cẩn là cái khăn. "Đai" là cái vòng đeo ngang lưng ở ngoài áo chầu. Hết thảy đều là những thứ cao quý vua ban cho người đỗ tiến sĩ để vinh quy bái tổ. Nhân vật có vẻ bề ngoài vừa uy nghi, vừa phô trương tự đắc. Tuy nhiên, điệp từ cũng xuất hiện với mật độ dày đặc và ẩn chứa ý vị mỉa mai bắt đầu bộc lộ thái độ của tác giả, khiến cho ta thấy có điều gì đó bất thường ở vị tiến sĩ này. Từ "cũng" được nhấn mạnh, được đưa lên đầu câu, chỉ sự giống nhau, lặp lại của hiện tượng, kết hợp với ba từ "có kém ai" khiến cho con người có học vị cao này có cái vẻ của sự giả dối, học đòi. Đến hai câu sau mọi việc đã trở nên rõ ràng hơn. Nhân vật "cũng biển cũng cân đai" kia hóa ra chỉ là một ông tiến sĩ giấy, bề ngoài giống hệt như tiến sĩ thật nhưng thực chất bên trong lại rỗng tuếch chẳng có gì. Cái chất liệu làm nên con người ông đơn giản chỉ là từ mấy mảnh giấy và một ít son diêm dúa:

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.


Trong hai câu thực này, nghệ thuật đối được Nguyễn Khuyến sử dụng hết sức đắc địa. "Mảnh giấy" đối với "thân giáp bảng", "nét son" đối với "mặt văn khôi". "Giáp bảng" là bảng công bố kết quả thi cử ngày xưa, còn được gọi một cách trang trọng là bảng rồng. "Thân giáp bảng" là người đỗ đạt cao nhưng thực chất ở đây chỉ được chế tác từ một mảnh giấy vụn. Còn chỉ bằng vài "nét son" là có thể tạo nên "mặt văn khôi" – chỉ người đứng đầu làng văn. Nguyễn Khuyến đã đặt những sự vật có giá trị khác hẳn nhau vào trong một kết cấu song hành, đối lập, cho mọi người thấy được việc tạo ra một ông tiến sĩ giả bằng giấy thực chẳng khó khăn gì, qua đó thể hiện tính chất rẻ mạt, vô nghĩa của danh hiệu tiến sĩ thực của cái thời cuối phong kiến đầu thực dân này.

Ông nghè tháng Tám có diện mạo bên ngoài giống hệt như tất cả các ông tiến sĩ thật nhưng cái thực học chỉ nhẹ hều như mảnh giấy và vết son mà thôi. Nhà thơ đã mượn hình ảnh của ông tiến giấy để nói về ông tiến sĩ thật đương thời, vạch trần bản chất giả dối của đối tượng bằng cách chỉ ra mâu thuẫn giữa hình thức bề ngoài lộng lẫy, hào nhoáng được che giấu hết sức tinh vi và cái thực chất bên trong sáo rỗng, đáng thương hại của nhân vật.

Đối với kẻ theo đòi chuyện học hành thì danh hiệu tiến sĩ là niềm vinh quang mà muốn đạt được nó thì người quân tử phải không ngừng tự học hành rèn luyện, có tri thức thông kim bác cổ, có tài năng xuất chúng để ra giúp dân, giúp nước. Có biết bao người đã theo đòi học hành chăm chỉ suốt đời mà vẫn không đạt được vinh hạnh đó. Nhưng nay thì đã khác, cái danh hiệu ấy đã bị người đời coi thường, khinh rẻ:

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.


Đến hai câu luận này, Nguyễn Khuyến dường như đã chuyển từ việc mô tả khách quan sang việc đánh giá chủ quan. Chỉ qua hai cụm từ cảm thán: "sao mà nhẹ", "ấy mới hời" dường như giá trị của ông nghè đã có thể mang ra cân đo, đong đếm. Ngày xưa kẻ lao tâm khổ tứ để đỗ đạt khoác trên thân tấm áo vua ban mà cảm thấy trách nhiệm nặng nề, thì nay kẻ mua danh bán tước khoác lên mình tấm áo ấy mà sao lại thấy nhẹ bẫng. Đơn giản bởi nó là thứ giả. Không phải ngẫu nhiên khi mô tả một ông tiến sĩ bằng giấy nhưng nhà thơ vẫn phải luôn gắn vào đó từ "thân" (thân giáp bảng) hoặc "tấm thân" (tấm thân xiêm áo), chính để tạo nên sự so sánh. Nhưng sao những lời lẽ tưởng như chủ quan chế giễu, mỉa mai trên lại như cũng đang nhuốm những ngậm ngùi, chua chát, cảm thán thời thế và nhà thơ dường như đang buồn cho chính mình vậy?

Sáu câu thơ trên như một chiếc đòn bẩy để hai câu thơ cuối buông ra một lời kết luận khiến người đọc bàng hoàng:
Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.


Ở đây, thêm một lần nữa tác giả tiếp tục khắc họa sâu thêm sự đối lập, tương phản gay gắt giữa cái bên ngoài và bản chất thật của ông tiến sĩ. Cụm từ ghế chéo lọng xanh vẫn gây cho người đọc ấn tượng về dáng vẻ oai vệ vốn có của nhân vật có học vấn cao nhất đương thời. Nhưng lần nâng lên cuối cùng này cũng sẽ là lần Nguyễn Khuyến giáng cho đối tượng trào phúng đòn hạ bệ chí mạng nhất. Giọng điệu mỉa mai, hài hước của hai chữ bảnh chọe đã giết chết, đã vạch rõ cái oai phong của vị tiến sĩ kia thực chất chỉ là cái mẽ giả dối bên ngoài:

Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.

Thật là một hình ảnh thảm hại! Cái kẻ mà ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe ấy hóa ra là một thứ con rối chịu để kẻ khác giật dây mà thôi. Cái xã hội bát nháo ấy, cái thứ triều đình bù nhìn toàn những quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề ấy nhất định chỉ có thể sản sinh ra cái thứ hàng mã này. Mà cái kẻ đứng đằng sau giật dây tất cả lũ rối người ấy từ trên xuống dưới không ai khác chính là bè lũ thực dân cướp nước. Nguyễn Khuyến đã nhìn thấy tất cả điều đó và ông kín đáo đưa ra trào phúng đại diện ưu tú nhất nhưng đã trở nên lỗi thời của cái thể chế đó.

Tam nguyên Yên Đổ đã táo bạo đưa vào trong thơ mình những hư từ, lời nói khẩu ngữ kiểu như: "cũng… cũng", "kém ai", "sao mà nhẹ", "ấy mới hời", "tưởng rằng"…, đưa chất văn xuôi, chất thế tục vào trong một thể thơ có tính ước lệ, tượng trưng cao như thơ Đường luật, khiến cho thể thơ này trở nên gần gũi hơn, giàu giá trị hiện thực hơn. Nhà thơ phát hiện mâu thuẫn đáng cười ở đối tượng qua những nét đối lập của sự đồng dạng, giống nhau, (tiến sĩ thật – tiến sĩ giấy). Đó là những mâu thuẫn, những điều lố bịch gây cười có ngay trong bản thân đối tượng mà chính nó không hề ý thức được.

Lối trào phúng của ông già Yên Đổ là lối trào phúng gián tiếp, kín đáo và thâm thúy, ý định trào phúng của người viết không bộc lộ trên bề mặt văn bản mà chìm sâu sau những hình ảnh và từ ngữ. Muốn hiểu được tiếng cười của ông, buộc phải qua những bước “giải mã”, suy đoán, bóc tách từng lớp ngôn từ, ẩn ngữ với những ẩn dụ, phúng dụ… Để nhận ra thực chất của loại tiến sĩ thật dưới chế độ nửa thực dân phong kiến thì phải có tri thức về thứ đồ chơi trung thu của trẻ nhỏ – hình nộm ông nghè tháng Tám; hay muốn biết về thân phận vua hề, quan nhọ dưới chế độ thực dân nô lệ thì phải hiểu nghệ thuật chèo, đặc biệt là hề chèo (bài thơ Lời vợ người hát phường chèo) v.v…

Rõ ràng, để có được sự thành công khi sử dụng lối trào phúng này, tác giả phải là người trong cuộc, phải am hiểu đối tượng, nếu không sẽ tạo nên những cú đánh trượt. Nguyễn Khuyến hiểu đối tượng sâu sắc như vậy chính vì ông là con đẻ của chế độ khoa cử triều Nguyễn và là người đạt đến đỉnh cao vinh quang của học vấn đương thời. Nhưng con người ấy đã dần đánh mất niềm tin vào chế độ, vào triều đình, vào vốn học vấn của mình trước thực tế lịch sử, khi mà tất cả vũ khí vật chất và tinh thần, tất cả thế ứng xử truyền thống tồn tại hàng ngàn năm của dân tộc đã bị kẻ thù mới bẻ gãy một cách dễ dàng.

Ông cũng cảm thấy nghi ngờ cả tài năng, sức lực của lớp người đại diện cho tinh hoa của chế độ ấy và nghi ngờ chính bản thân mình. Bởi trong số những ông nghè tháng Tám hết thời ấy có cả bản thân Nguyễn Khuyến nhưng tất nhiên ông Tam Nguyên Yên Đổ hoàn toàn khác với những kẻ hữu danh vô thực đương thời. Điều ấn tượng và độc đáo ở đây là cái hài hước ấy xuất phát từ trong lòng đối tượng bị phê phán. Sự phủ định rõ ràng còn có thêm màu sắc tự phủ định. Tính bi hài của hình tượng văn học nhờ vậy càng trở nên sâu sắc gấp bội.

Tính tự trào của bài thơ cũng hé mở cho ta nhận thấy, nghe thấy, chứng kiến một cuộc đối thoại và một cuộc tự đối thoại của nhà thơ với chính mình – tiếng nói phản tỉnh của một người trong cuộc. Đó cũng chính là tiếng nói phản chính thống, một hành vi tưởng như là nói ngược nhưng thực chất lại phản ánh một cách chính xác nhất bản chất của xã hội và sự tha hóa của lớp người đại diện cho tinh hoa của thể chế đương thời.

Tiến sĩ giấy là biểu hiện rõ nhất của tiếng nói tự trào. Nguyễn Khuyến đã lấy việc khách thể hóa bản thân để bộc lộ tâm trạng mình. Tiếng nói lưỡng phân đa chiều, vừa hướng nội, vừa hướng ngoại này chỉ có được khi con người tự ý thức được tình trạng bi hài của mình trước thực tế lịch sử, nó bộc lộ những day dứt, trăn trở, những mâu thuẫn trong chính bản thân nhà thơ, bỏ xa kiểu con người đơn nhất trong văn chương trung đại. Trong văn học trào phúng, phê phán và phủ định điều này cũng chính là để khẳng định, bảo vệ một chân lý nào đó. Nguyễn Khuyến châm biếm, đả phá cái giả Nho, cái vô dụng, chính là để khẳng định cái chân Nho, khẳng định những giá trị truyền thống của dân tộc, khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của riêng mình để tự phản tỉnh trước thực tế của sự khủng hoảng các giá trị đạo đức đương thời.

Mỹ học về cái hài dường như không bao quát hết những sắc thái đa diện của thi tài Nguyễn Khuyến. Trong Tiến sĩ giấy nói riêng và trong thơ tự trào của ông nói chung, cái hài thường bị cái bi lấn át. Điều đó cũng khiến cho tính trữ tình, sự kết hợp giữa hai phẩm chất trào phúng và trữ tình trong các bài thơ trào phúng của ông trở nên nhuần nhuyễn, ý thơ như còn đọng mãi trong lòng người đọc. Vì vậy, Nguyễn Khuyến tự trào, tự giễu cợt mình, về mặt khách quan, cũng chính là đang trào phúng cả một tầng lớp đại diện cho một xã hội thối nát, một nền học vấn đã hết thời, và một giai cấp đang từng bước chấm dứt vai trò lịch sử. Danh vị tiến sĩ nay đã trở thành trò hề, trở thành thứ đồ chơi để dứ thằng cu, mà mỗi lần nhìn thấy thứ hình nộm ấy, vị Tam nguyên lừng lẫy một thời, vị quan đại thần của triều đại đương thời lại cứ tưởng như người ta đang đem mình ra để bỡn cợt:

Rõ chú hoa man khéo vẽ trò
Bỡn ông mà lại dứ thằng cu.

(Vịnh tiến sĩ giấy, I)

Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.

(Tự trào)

Có lẽ Nguyễn Khuyến là người trí thức đầu tiên trong thời đại ông có được cái nhìn tỉnh táo như vậy. Không phải người trí thức nào trong cơn phong ba của lịch sử cũng nhận ra được những hạn chế tất yếu của giai cấp mình, thừa nhận sự bất lực của nó trước thực tế lịch sử. Nguyễn Khuyến lớn chính vì ông đã sớm nhận ra tất cả những điều đó.

Rõ ràng, bên cạnh màu sắc bi, hài, tự trào thấm đẫm chất trữ tình, thơ trào phúng Nguyễn Khuyến còn mang tính triết lý sâu sắc về nhiều vấn đề xã hội, trong đó nổi bật là triết lý về thân phận của người trí thức, của lớp nho sĩ cuối mùa tầng lớp mang trong số phận của mình bi kịch có tính chất nhân loại ở buổi giao thời dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Nguyễn Khuyến đã tự phản tỉnh mình, tự ý thức được thân phận con người thừa của mình, thấy mình là một hủ nho trong thời buổi mới. Mặc cảm con người thừa, con người vô tích sự phải đến Nguyễn Khuyến và đặc biệt Tú Xương sau này mới thật sự rõ nét. Tuy nhiên về chủ đề này giữa hai nhà thơ có những khác biệt cơ bản. Tú Xương cũng có bài thơ Tiến sĩ giấy nhưng hình tượng nhân vật của ông không có lớp nghĩa tự trào, không có màu sắc bi kịch và ít chi tiết khắc họa mang tính điển hình. Con người không có duyên phận với khoa cử này đứng ở thế đối lập với những kẻ mang danh khoa bảng mà không phải là người trong cuộc, người ở trên nhìn xuống như Nguyễn Khuyến. Vì vậy ông Tú có thể chửi thẳng mà không e dè và cũng không hề có chút chua xót cho đối tượng bị trào phúng:

Ông đỗ khoa nào, ở xứ nào?
Thế mà hoa hốt với trâm bào?
Mỗi năm ngày tết trung thu đến
Tôi vẫn quen ông chẳng muốn chào.


Có thể thấy, hình tượng Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến mang tính đa nghĩa, giàu liên tưởng và cũng là hình tượng có tính điển hình và tính khái quát cao độ hơn. Điểm chung giữa hai tác giả chính là tấm lòng ưu ái suốt đời trăn trở vì dân, vì nước được thể hiện phong phú qua những bài thơ giàu giá trị nghệ thuật.

Tiến sĩ giấy không chỉ là thành tựu nghệ thuật tiêu biểu của thơ Nguyễn Khuyến mà còn là một trong những hình tượng điển hình có giá trị nhất của văn học trào phúng Việt Nam ở giai đoạn đỉnh cao. Tiến sĩ giấy cũng không chỉ có ý nghĩa nhất thời, chỉ diễn ra trong thời đại của Tam nguyên Yên Đổ mà còn là hình tượng nghệ thuật mang giá trị phổ biến, chỉ những kẻ bề ngoài mang danh của người có học thức cao nhất nhưng thực chất bên trong lại không tương xứng với cái nhãn mà mình đang mang. Những nhân vật đó thời nào cũng có, đặc biệt trong những giai đoạn mà những giá trị thật giả lẫn lộn, đồng tiền lên ngôi, thời kỳ mà con người được định giá bằng đủ thứ danh hiệu hình thức thì loại người đó càng nhiều. Họ có thể là những kẻ mua danh bán tước, những tiến sĩ giả, nhưng họ cũng có thể là những người đi học thật nhưng tài năng kém cỏi và Nguyễn Khuyến chính là người đầu tiên đã tổng kết hiện tượng xã hội đó thành một hình tượng nghệ thuật điển hình tượng trưng cho mọi thời đại. Điều đó đã khẳng định giá trị sáng tạo và sức sống bền vững muôn đời của thơ ca Tam nguyên Yên Đổ.
 

Phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy - Bài làm 2

Được biết đến là nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam, Nguyễn Khuyến đã miêu tả đời sống nông thôn với ngòi bút giản dị, ấm áp. Thế nhưng, những vần thơ của ông còn gửi gắm tâm sự yêu nước, nỗi u hoài trước sự đổi thay của thời cuộc. Thế kỉ XIX với những khủng hoảng về tư tưởng và kinh tế khiến nhà thơ không khỏi cảm thấy bất lực. "Tiến sĩ giấy" là bài thơ trào phúng thể hiện cái nhìn mỉa mai, châm biếm của Tam nguyên Yên Đổ đối với hạng người mang danh khoa bảng mà không có thực chất, đồng thời cũng mang thoáng chút tự trào của tác giả.

Nhan đề bài thơ "Tiến sĩ giấy" vốn để miêu tả một nét đẹp văn hóa của dân tộc ta. Đó là hình nộm bằng giấy cho trẻ em chơi trung thu, giả hình ông tiến sĩ để khơi dậy trẻ em lòng ham học và ý thức theo con đường khoa cử. Tuy nhiên trong văn bản, "giấy" không chỉ để gợi về chất liệu mà còn khiến người đọc liên tưởng đến tính chất hư danh. Bởi vậy, đặt tên tác phẩm là "Tiến sĩ giấy", Nguyễn Khuyến đã ngụ ý phê phán một cách khéo léo tính chất hư danh của học vị tiến sĩ trong thời buổi Hán học suy tàn, Tây học ngày càng lấn át.

Mở đầu bài thơ, hình tượng ông tiến sĩ giấy hiện lên với những nét phác họa khái quát nhất:
"Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè có kém ai."


Đối tượng Nguyễn Khuyến miêu tả có "cờ", có "biển" - tấm biển gỗ in chữ "ân tứ vinh quy", có "cân đai" - khăn bịt tóc để đội mũ và đai đeo ngang lưng. Tất cả những thứ đó tạo nên y phục của quan lại, quý tộc lớn thời phong kiến. Thế nhưng điệp từ "cũng" được nhắc đi nhắc lại đến bốn lần ở đầu mỗi dòng thơ khiến người đọc không thể nghi ngờ bản chất của đối tượng. Tuy giống nhưng đó không phải là ông tiến sĩ thật, hóa ra đó chỉ là ông tiến sĩ làm bằng giấy để tạo thành đồ chơi cho trẻ con. Câu thơ vì thế thoáng chút mỉa mai, châm biếm của tác giả.

Đến với hai câu thực, hình dáng tiến sĩ giấy được khắc họa rõ nét hơn:
"Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt văn khôi."


Tiến sĩ giấy ấy chỉ cần vài mảnh giấy là tạo thành hình dáng, chỉ cần vài ba nét son là tạo nên khuôn mặt của một người đứng đầu làng văn. Vậy nhưng hàm ý của Nguyễn Khuyến đâu dừng ở đó, câu thơ ẩn sâu dưới nghĩa tả thực là nghĩa ẩn dụ. Phải chăng để trở thành một tiến sĩ, có danh khoa bảng sao mà dễ dàng đến thế, chỉ cần vài ba "mảnh giấy" (tiền giấy) là có thể làm được? Bởi vậy, đến hai câu thực, nhà thơ trực tiếp bày tỏ cảm xúc của mình:
"Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh ấy mới hời."


Để trở thành tiến sĩ mang danh khoa bảng, bao nhiêu giọt mồ hôi phải đổ trên trang sách, bao ngày dùi mài kinh sử cần mẫn, vậy mà giờ đây, "tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ" đến thế. Thực trạng đất nước lúc bấy giờ với những thay đổi về đường hướng tuyển chọn nhân tài, tệ mua danh bán chức diễn ra phổ biến dẫn đến xuất hiện những kẻ chỉ có hư danh mà không có thực học. Hậu quả là, những người có tài năng thực sự, những người bằng thực lực của mình đỗ đạt cao cũng chỉ bằng những kẻ "tiến sĩ giấy". Bởi vậy, giọng điệu hai câu thơ, đặc biệt "cái giá khoa danh ấy mới hời" cất lên sao mà chua chát, thoáng chút tự trào của nhà thơ. Tác giả như vừa châm biếm mỉa mai thực trạng xã hội, vừa cười người nhưng để rồi cười mình, để xót xa cho chính bản thân vàcho cả đất nước.

Tiếng cười ở hai câu thực đã chua chát, sâu cay nhưng phải đến hai câu thơ kết, tính chất trào phúng của bài thơ mới thực sự đạt tới đỉnh cao, nó phá tan thật thật giả giả ở các câu thơ trước:
"Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi."


Ông tiến sĩ giấy hiện lên với hành động "ngồi bảnh chọe" gợi dáng vẻ oai vệ cùng lối ăn mặc đầy tính trưng diện, kết hợp với "ghế tréo" và "lọng xanh" oai nghiêm. Ta như cảm nhận được thái độ đả kích của tác giả với những kẻ nhờ có đồng tiền lo lót mà mua quan bán chức, không chỉ vậy những kẻ đó còn thích thể hiện, ra oai. Tất cả làm nên ông tiến sĩ kệch cỡm, đáng khinh thường. Để rồi, kết lại bài thơ, ông bày tỏ quan điểm của mình một cách trực tiếp: "tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi". Cứ nghĩ là thật nhưng đến đây mới vỡ òa chỉ là một thứ đồ chơi bằng giấy, kết thúc khiến bao bạn đọc bất ngờ nhưng khi xét đến khía cạnh tự nhiên lại thấy hoàn toàn hợp lí. Nhà thơ như đang lột tả bản chất trống rỗng, chỉ có hư danh mà không có thực học của những ông nghè có thực trong đời sống. Là người trong cuộc, thấy được bộ mặt thật của cả xã hội bấy giờ, rằng những kẻ có danh mà không có thực ngày càng được đề cao, Nguyễn Khuyến chỉ biết bất lực mỉa mai và tự xót xa cho chính bản thân mình:

" Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng"

(Tự trào)

Bài thơ mượn hình ảnh tiến sĩ giấy quen thuộc từ thực tế đời sống để phê phán hạng người mang danh khoa bảng nhưng không có thực chất, cùng đó thể hiện thái độ tự trào của nhà thơ. Không phải chỉ trong thời đại của Nguyễn Khuyến, hiện tượng đó mới phổ biến mà ở bất cứ thời đại nào, đây vẫn là đề tài nóng bỏng của xã hội. Nhìn vào những mặt trái của thực tế ấy để khắc phục, đó mới là một xã hội bình đẳng và tiến bộ.
 

Phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy - Bài làm 3

Cùng là thơ trào phúng, nếu Trần Tú Xương góc cạnh, sâu cay bao nhiêu thì Nguyễn Khuyến lại nhẹ nhàng, kín đáo bấy nhiêu. Giáo sư Dương Quảng Hàm từng nhận xét chất trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến chính là lời của bậc đại nhân quân tử dùng để khuyên răn người đời. Đặc điểm đó của bút pháp trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến được khắc họa rõ nét qua tác phẩm thơ Tiến sĩ giấy.

Nhà thơ Nguyễn Khuyến đã sáng tác Tiến sĩ giấy theo thể thơ thất ngôn bát cú - một thể thơ đường luật vô cùng quen thuộc với các cây bút thời trung đại. Bài thơ đi theo cấu tứ đề thực luận kết rất chỉn chu, mẫu mực, với các thi pháp văn học trung đại tinh tế đã làm bật lên nét sang trọng trong thơ ông.

“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.”


Ngay hai câu đề, điệp từ “cũng” đã đươcn xuất hiện liên tiếp bốn lần. Từ “cũng” gợi lên cảm giác khá khiên cưỡng với sự vật xuất hiện phía sau nó. Khiến những cờ, biển, cân đai trở nên kém phần oai nghiêm, trang trọng. Theo đó, tác giả liệt lê ra các phục sức xuất hiện trên người của một vị tiến sĩ - người có chức quan đỗ cao nhất trong một kì thi lớn, đứng đầu bảng vàng. Đó là những món đồ sang quý, biểu tượng cho người có vị thế, được nhiều người kính trọng. Biết bao sĩ tử tham gia vào con đường thi cử đều ao ước được mặc lên người những phujmc sức đó. Tuy nhiên, khi các phục sức cao quý ấy được liệt kê bằng điệp từ cũng mang vẻ khoe khoang, thì bỗng nhiên lại mang đậm tính mỉa mai. Đến cả danh xưng “ông nghè” oai phong cũng không nằm ngoài số phận đấy. Đặc biệt khi nó được đi cùng với cụm từ “có kém ai”. Cụm từ ấy khiến cho chức vị ông nghè trở nên giải dối, học đòi, không có vẻ trang nhã của người có học thức. Nhưng vì sao tác giả lại mập mờ về thái độ với vị tiến sĩ này như vậy? Điều đó được nêu rõ ở hai câu thực tiếp theo.

“Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.”


Ở đây, nhà thơ đã khẳng định sự tinh tế của bản thân khi sử dụng nghệ thuật đối một cách nhuần nhuyễn, tự nhiên. Mảnh giấy đối với thân giáp bảng, nét son đối với mặt văn khôi. Thông thường, phép đối trong thơ trung đại rất tôn sùng sự đăng đối, ngang hàng với nhau, nhưng trong hai câu thơ này, sự đăng đối có phần khiên cưỡng. Giáp bảng là bảng rồng công bố danh sách thi sinh đỗ bảng vàng. Thân giáp bảng là người đỗ đạt cao, được bao người trọng vọng, ấy thế mà lại đối với một mảnh giấy vụn. Khuôn mặt tuấn tú, uy nghiêm của một trạng nguyên thì lại đối với một nét bút mực chấm đỏ. Sự chênh lệch một trời một vực về tính chất, giá trị của cả hai vế lúc này được hiển thị rõ ràng. Bởi thật ra, vị tiến sĩ này chính là một vị tiến sĩ làm từ giấy - món đồ chơi phổ biến trong dân gian. Sự đăng đối một cách kì lạ giữa các vế thơ đã được làm sáng tỏ. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở tầng nghĩa đó, thì còn đâu là thơ Nguyễn Khuyến. Từ đầu đến cuối, chẳng có câu chữ nào nói rằng nhà thơ đang tả một món đồ chơi cả. Thật thật, giả giả chẳng biết đâu mà phán đoán. Đó cũng chính là ngụ ý của nhà thơ. Một món đồ chơi tiến sĩ chỉ cần mẩu giấy vụn, chấm một nét mực là đã có thể tạo thành. Quá đơn giản và dễ dàng. Cách để tạo ra một tiến sĩ thật cũng thế. Chỉ cần quan chấm thi ậm ừ một nét bút, thế là đã có một tiến sĩ ra lò. Thật ở cái chức danh, cái áo quan, cái mão đội trên đầu, nhưng giả ở cái nội tình bên trong, ở cái trí tuệ ở trong người. Hình dáng vị tiến sĩ thật và tiến sĩ giấy lồng ghép vào nhau, tuy hai mà một, tuy thật mà giả. Sự trào phúng thâm thúy qua câu từ đó, chính là thủ pháp đặc trưng của nhà thơ Nguyễn Khuyến.

“Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.”


Đến với hai câu thơ luận, lần này, từ việc miêu tả khách quan chung chung để dẫn dắt người đọc. Thì lần này, nhà thơ đã chuyển sang nhận xét chủ quan. Vẫn là hình ảnh tấm xiêm áo, thân giáp bảng ở câu thực, lần này đã được nhận xét chi tiết thêm. Các tính từ “nhẹ”, “hời” khiến bộ phục sức của tiến sĩ càng thêm kém trang trọng. Xiêm áo đó nhẹ bởi vì nó là mẩu giấy vụn, nhưng cũng có lẽ bởi bên trọng nó rỗng tuếch, chẳng có chút phẩm đức, trí tuệ nào cả. Chiếc áo trạng nguyên quá rộng với một kẻ ngu dốt. Còn danh trạng nguyên thì lại quá hời. Từ hời được dùng cho một phi vụ buôn bán mà chỉ phải bỏ ra một chút vốn, đã đem lại được nhiều lợi ích. Ắt hẳn cái danh trạng nguyên và những thứ có được sau khi đỗ đạt còn nhiều hơn số tiền bỏ ra mua chức trạng nguyên. Phía sau sự chế giễu vẻ rỗng tuếch, hữu danh vô thực của ông tiến sĩ giấy kia, là sự giễu nhại những vị tiến sĩ đầu óc trống trơn, bụng chẳng được mấy trang kinh thư, chỉ dựa vào ít tiền của để vinh danh bảng vàng. Nhưng cùng với đó, là sự ngậm ngùi, chua xót cho chính thân phận mình. Bởi nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng là một tiến sĩ. Ông cay đắng thay cho phận mình, bởi giờ đây cái danh tiến sĩ đâu còn danh giá như xưa. Trong mắt thế nhân, nó chỉ là một món đồ chơi tầm thường có thể mua được bằng tiền mà thôi.

Nỗi niềm ấy, khiến nhà thơ lại càng thêm gay gắt, càng thêm chán ghét những tiến sĩ giấy ngoài kia. Lấy hai câu thơ luận làm đòn bẩy, Nguyễn Khuyến đi đến câu thơ kết mang nhiều suy tư và ngụ ý:

“Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Tưởng rằng đồ thật hoá đồ chơi.”


“Ghế chéo, lọng xanh” là vị trí ngồi của một vị tiến sĩ - vị trí oai nghiêm bao học trò ngưỡng mộ. Nhưng dáng ngồi bảnh chọe của vị tiến sĩ rởm đã phá tan hoàn toàn bầu không khí đó. Tiến sĩ vốn là đại diện cho những người đứng đầu xã hội về học vấn, ấy thế mà lại bị miêu tả với dáng vẻ thô thiển, kệch cỡm của những kẻ mãng phu. Sự trào phúng ấy đã giáng một đòn chí mạng vào những kẻ học đòi kia. Vốn đã chẳng có trí tuệ, chẳng có học thức, nay đến vẻ ngoài cũng kệch cỡm, không bắt chước nổi cho ra dáng một vị tiến sĩ. Thế thì những kẻ đó có gì nhỉ? Chẳng có gì cả. Ở câu thơ cuối, nhà thơ sử dụng động từ “tưởng” để vạch trần sự giả dối của những tiến sĩ trên kia. Tưởng là đồ thật, hóa đồ chơi. Thì ra từ đầu bài thơ đến đây, tác giả vẫn còn ngờ ngợ về sự thực chất của các tiến sĩ. Nhưng giờ đây ông đã chắc chắn rằng, đó chỉ là đồ chơi mà thôi. Câu khẳng định ấy đã vạch trần tấm màn che cuối cùng, khiến các tiến sĩ rởm không còn chỗ ẩn náu nữa.

Mượn hình ảnh tiến sĩ giấy - một món đồ chơi dân gian, nhà thơ Nguyễn Khuyến dùng giọng điệu mỉa mai, trào phúng của mình để phê phán, vạch trần bộ mặt thật của các vị tiến sĩ đương thời. Đó là những kẻ bù nhìn, chỉ có vẻ ngoài kệch cỡm cố bắt chước, ra vẻ. Nhưng vì chẳng có nội hàm, cái đầu lại rỗng tuếch nên tự biến mình thành trò hề, thành món đồ chơi cho những kẻ cầm quyền. Những tiến sĩ đó là đại diện cho nền học vấn của nước nhà, đại diện cho cả một triều đình phong kiến. Sự giả tạo, rỗng tuếch của họ chính là đại biểu cho một triều đại mục rỗng ở bên trong. Đó cũng chính là một trong các lí do khiến Nguyễn Khuyến lựa chọn rời bỏ triều đình để ẩn cư.
 

Phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy - Bài làm 4

Bài thơ “Tiến sĩ giấy”là một trong những tác phẩm nổi bật thể hiện rõ tài năng của cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Bằng giọng thơ mỉa mai, châm biếm đầy sâu cay, tác giả đã thể hiện cái nhìn độc đáo về những vị tiến sĩ “hữu danh vô thực” thời bấy giờ. Qua đó, chúng ta thấy được tâm sự của một trí thức yêu nước chân thành, sâu sắc nhưng bất lực.

“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè có kém ai
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt văn khôi
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá danh khoa thế mới hời
Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh chọe
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi!”


Trong bài thơ này, tác giả đã thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm đối với những ông tiến sĩ giấy hữu danh vô thực thông qua việc miêu tả những ông tiến sĩ làm bằng giấy cùng một ít phẩm màu xanh đỏ- một món đồ chơi của trẻ con ngày Tết trung thu. Ở hai câu thơ đầu tiên, tác giả đã giới thiệu một món đồ chơi của trẻ em trong sự mô phỏng và so sánh với những ông tiến sĩ thật ngoài đời:

Xem thêm:  Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là để làm công việc như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồnđến chân tường để bênh vực cho những con người không còn có ai để bênh vực

“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè có kém ai”


Điệp từ “cũng” xuất hiện hai lần ở đầu hai câu thơ thoạt tiên gây ấn tượng rằng tác giả đang ngợi khen bộ đồ chơi được chế tác với đầy đủ bộ lễ giống như thật. Nhưng đằng sau là sắc thái mỉa mai, châm biếm đầy sâu cay, và không chỉ dừng lại ở mức độ miêu tả một thứ đồ chơi vô tri mà tác giả thể hiện sự mỉa mai đối với những ông nghè thật- thật mà giả. Ông tiến sĩ giấy trở thành hình ảnh ẩn dụ biểu trưng cho những con người vinh danh khoa bảng “hữu danh vô thực”, có học hàm học vị nhưng thực chất là không có năng lực.

Ở hai câu thơ tiếp theo, tác giả tiếp tục nhấn mạnh sự mỉa mai, chua chát vào hình tượng những ông tiến sĩ giấy:

“Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt văn khôi”


Thủ pháp đối lập đã được vận dụng một cách tối đa. Tác giả đã miêu tả chi tiết thành phần cấu tạo của ông tiến sĩ đồ chơi: được tạo nên từ mảnh giấy vụn sau khi được cắt tỉa và tô điểm thêm một ít phẩm màu. Tất cả những sự vật đối lập nhau được đặt trong một kết cấu song hành: “mảnh giấy- thân giáp bảng”, “nét son- mặt văn khôi” để nói lên thực chất hèn kém của những ông nghè. Mảnh giấy, nét son– những thứ thật đơn giản, nhỏ bé được đặt cạnh những thứ rất trang trọng Thân giáp bảng, mặt văn khôi khiến sắc thái trào phúng được tô đậm, khiến cho độc giả dễ dàng nhận ra những sự đồng nhất giữa hai hình tượng: ông tiến sĩ giấy đồ chơi và những ông tiến sĩ thật trong xã hội thực dân nửa phong kiến thời bấy giờ. Thân giáp bảng vốn cao trọng lại được tạo nên từ mảnh giấy mỏng manh, tầm thường; còn mặt văn khổi quý hiển, rạng rỡ lại được tổ điểm nhờ những nét son sơ sài.

Ở hai câu thơ tiếp theo, giọng thơ từ mỉa mai chuyển sang ngậm ngùi:

“Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá danh khoa thế mới hời”


Qua các cụm từ giàu sắc thái biểu cảm như “sao mà nhẹ”, “thế mới hời”, chúng ta có thể thấy được sự châm biếm đầy ngậm ngùi, chua chát của tác giả: cái danh tiến sĩ được khoác lên tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ nhàng, hời hợt. Là một nhà nho chân chính, dĩ nhiên cụ Tam nguyên Yên Đổ không khỏi chua xót trước thực trạng mua quan bán tước và sự lụi tàn của nền văn hóa Nho học.

Hai câu thơ cuối đã kết thúc bài thơ một cách đầy bất ngờ và hướng thẳng sự châm biếm, mỉa mai trực tiếp đến những ông tiến sĩ thật:

“Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh chọe
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi!”


Xuyên suốt bảy câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể thấy được tác giả đang vịnh một thứ đồ chơi với hàm ý bóng gió sâu xa. Tuy nhiên câu thơ cuối “Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi” vang lên vừa bất ngờ vừa tự nhiên để thể hiện đích ngắm cuối cùng mà tác giả hướng đến chính là những ông nghè tiến sĩ bằng xương, bằng thịt.

Thông qua việc vịnh một món đồ chơi, chúng ta thấy được bài thơ còn là tiếng cười tự trào của tác giả, bởi cụ Tam nguyên Yên Đổ cũng là một oog nghè, dù cho trên thực tế, ông khác hẳn với những vị tiến sĩ giấy “hữu danh vô thực” kia. Qua lời tự trào của tác giả, chúng ta thấy được tâm sự của một trí thức yêu nước chân thành, sâu sắc nhưng bất lực. Nỗi niềm tâm sự ấy vận vào tứ thơ và chi phối cả cuộc sống thường ngày của nhà thơ. Bởi vậy trong suốt thời gian làm quan, trong lòng tác giả luôn canh cánh câu hỏi “Mình nên về hay nên ở”. Và cuối cùng, để giữ trọn khí tiết của một nhà nho chân chính, ông đã lựa chọn rời xa chốn quan trường, từ chối không đi nhận chức Tổng đốc Sơn Tây.

Như vậy, thông qua bài thơ “Tiến sĩ giấy”, chúng ta có thế thấy được thực trạng khoa cử và nền giáo dục của nước ta thời bấy giờ. Bằng giọng thơ mỉa mai chua chát, tác giả Nguyễn Khuyến đã tạo dựng thành công hình ảnh những ông tiến si hữu danh vô thực.

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây