* Trước khi đọc
Câu hỏi 1 - Trang 85: Có bao giờ bạn băn khoăn khi phải phân biệt cái mới với cái cũ. Hãy chia sẻ trải nghiệm của mình.
Trả lời:
Em đã từng rất nhiều lần băn khoăn khi phải phân biệt giữa cái mới và cái cũ. Đôi khi chỉ đơn giản là việc lựa chọn trang phục để mặc, đã có lần em mất rất nhiều thời gian vì không biết nên mặc cái áo mới mẹ mua hay cái váy cũ bố tặng bởi áo mới thì đẹp nhưng em không thích hoa văn của nó trong khi cái cũ thì hoa văn và kiểu cách em đều thích. Hay đến việc chọn bạn, nhiều lúc có truyện vui, em không biết nên kể cho bạn quen từ lâu nghe hay kể cho bạn mới quen nhưng thân thiết… Đôi khi nó khiến em khá là bối rối và mất thời gian vì những suy nghĩ cân đo đong đếm khiến bản thân không biết lên lựa chọn như nào cho hợp lý.
Câu hỏi 2 trang 85: Bạn hãy lựa chọn và so sánh một bài thơ thuộc phong trào Thơ mới với một bài thơ thuộc thời kì trung đại để tìm ra những điểm khác biệt.
Trả lời:
Chọn bài thơ trung đại Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương và bài Thơ mới Quê hương – Tế Hanh.
So sánh:
- Về nội dung:
+ Thơ trung đại chủ yếu bày tỏ nỗi lòng với thân phận con người (Thi dĩ ngôn chí), nặng tính chất giáo huấn.
+ Thơ mới có cái nhìn mở rộng hơn, phóng khoáng hơn, không bị ràng buộc bởi các lễ nghi, lễ giáo như ở văn học trung đại. Thơ mới chủ yếu thể hiện “cái tôi” cá nhân trước con người và thế giới: một cái tôi thiết tha, say đắm trước thiên nhiên và con người nhưng có lúc không tránh được nỗi buồn cô đơn, bơ vơ giữa cuộc đời và không gian vô tận. Ở đây, tác giả được biểu lộ cái tôi cá nhân vào bài viết.
- Về hình thức:
+ Thơ trung đại mang tính quy phạm, thể thơ gò bó vào niêm luật, hình ảnh mang nặng tính ước lệ, công thức. Hệ thống ước lệ phức tạp, nghiêm ngặt.
VD: Bài thơ “Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương” với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Bài thơ chỉ vẻn vẹn trong 4 câu thơ (lời ít, ý nghĩa) nhưng đã khắc họa rõ nét số phận cũng như những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
+ Thơ mới không sử dụng nhiều hệ thống ước lệ phức tạp, thoát khỏi cách diễn đạt theo quy tắc cứng nhắc, thể thơ tự do (số tiếng, số dòng, vần, nhịp…) ngôn ngữ thơ cần với lời nói cá nhân, hình ảnh sinh động gần với đời sống.
* Đọc văn bản
1. Chú ý vấn đề được nêu để bàn luận.
Trả lời:
Vấn đề được nêu để bàn luận: Hãy đi tìm cái điều ta cho là quan trọng hơn: tinh thần thơ mới.
2. Cái khó khi phân biệt rạch ròi thơ mới – thơ cũ là gì?
Trả lời:
Thơ mới và thơ cũ không có sự phân biệt rạch ròi dễ nhận ra. Trong Thơ mới, Thơ cũ đều có những bài hay, bài dở, bài hay ít, bài dở nhiều. Đó là khó khăn phức tạp nhất.
3. Tiêu chí nào được nêu để phân biệt thơ mới – thơ cũ?
Trả lời:
Tiêu chí được nêu ra để phân biệt thơ mới và thơ cũ không được nêu ra rõ ràng bởi mỗi thời đại đều có những nhà thơ theo trường phái nhất định vì vậy họ mới có thể viết ra những câu thơ cũ trong thời đại mới và những câu mới trong thời đại cũ. Cách duy nhất để hiểu được tinh thần thơ cho đúng là phải so sánh các bài thơ với nhau.
4. Chú ý cách lập luận của tác giả.
Trả lời:
- Luận điểm: Cái tôi và cái ta trong thơ mới và thơ cũ.
- Lí lẽ: Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi. Nó giống nhau thì vẫn có chỗ giống nhau như chữ tôi vẫn giống chữ ta. Nhưng chúng ta hãy tìm những chỗ khác nhau.
=> Đặt vấn đề rõ, gọn. Câu văn nghị luận giàu chất thơ, có sức gợi cảm xúc, gây hứng thú cho người đọc.
5. Tình trạng “cái tôi” khi mới xuất hiện trong văn học Việt Nam.
Trả lời:
Tình trạng của “cái tôi” khi mới xuất hiện ở Việt Nam là nó mang theo nhiều sự bỡ ngỡ, nghi hoặc bởi ra đời trong hoàn cảnh khi trong nước đã có sẵn một cái quan niệm khác đang tồn tại. Nơi mà quan niệm đoàn thể đang lấn chiếm xã hội, chủ nghĩa cá nhân trở lên nhỏ bé và thậm chí là bị bài trừ. Nhưng trong số những người đó, có những người vẫn mang trong mình chủ nghĩa cá nhân lớn mạnh, đi ngược lại với thời cuộc, nói lên cái cá nhân của mình nhưng thường ẩn sau chữ “ta” thay vì phô ra trước mọi người. Nhưng rồi, “cái tôi” được người đời để ý đến, họ đón nhận nó một cách từ từ và biến nó thành của mình từ đó xuất hiện các nhà thơ của phong trào thơ mới.
6. Những biểu hiện khác nhau của “cái tôi” trong Thơ mới.
Trả lời:
- Ngày một ngày hai nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta lại còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá.
- Tâm hồn của thi nhân chỉ vừa thu xong khuôn khổ chữ “tôi”.
- Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ “tôi”. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu.
- Làm cho thơ Việt Nam buồn và xôn xao, cùng lòng tự tôn, ta mất luân cả cái bình yên thời trước.
7. Ý nghĩa của “cái tôi” Thơ mới.
Trả lời:
“Cái tôi” trong Thơ mới là nơi để tác giả thả hồn mình vào với những cung bậc cảm xúc khác nhau. Để khi chúng ta nhìn vào đó, ta thấy được một tâm hồn đang tồn tại, vui tươi hay đượm buồn, hạnh phúc hay bất hạnh từ đó ta thấy đồng cảm, đồng điệu cùng với cảm xúc của nhà thơ.
8. Chú ý cách sử dụng biện pháp tu từ trong lời văn nghị luận.
Trả lời:
Sử dụng biện pháp điệp ngữ, so sánh đối chiếu ở cấp độ phù hợp, mang lại hiệu quả.
=> Một cách viết văn nghị luận văn chương dễ hiểu mà rất tài hoa, tinh tế, hấp dẫn.
* Sau khi đọc
Câu 1 trang 89: Để làm sáng tỏ luận đề “tinh thần Thơ mới”, Hoài Thanh đã nêu lên những luận điểm nào? Chỉ ra mối quan hệ giữa các luận điểm đó.
Trả lời:
Các luận điểm làm sáng tỏ luận đề “tinh thần Thơ mới”:
- Nguyên tắc để xác định tinh thần thơ mới.
- Tinh thần thơ mới: chữ tôi
- Sự vận động của thơ mới xung quanh cái tôi và bi kịch của nó.
Mối quan hệ giữa các luận điểm: Các luận điểm sắp xếp theo trình tự logic: nêu vấn đề, giải quyết vấn đề và kết luận.
Câu 2 trang 89: Ở phần đầu văn bản, tác giả đưa ra các tiêu chí so sánh thơ cũ – thơ mới nhằm mục đích gì?
Trả lời:
Mở đầu, tác giả đưa ra các tiêu chí so sánh thơ cũ, mới nhằm chỉ ra ranh giới không rõ ràng để phân biệt giữa Thơ mới và thơ cũ bởi trong thơ truyền thống cũng có người dũng cảm, dám nói lên cái tôi cá nhân của mình và trong Thơ mới, cũng có những nhà thơ mang tâm hồn trĩu nặng tâm trạng mà viết lên những dòng tâm trạng như những nhà thơ xưa. Điều đó khẳng định không thể dựa vào giai đoạn để nói về 2 thể loại này mà phải dựa vào cái giá trị, cái hay của nó để so sánh.
Câu 3 trang 89: Hãy nhận xét cách diễn giải về “cái tôi” của Hoài Thanh trong văn bản (đặc biệt chú ý đoạn: “Đời chúng ta … cùng Huy Cận”).
Trả lời:
Cách diễn giải về “cái tôi” của Hoài Thanh trong văn bản (đặc biệt chú ý đoạn: “Đời chúng ta … cùng Huy Cận”):
- Các nhà thơ mới trốn tránh hiện thực và thoát li hiện thực.
- Chủ đề được khai triển theo 2 phần chính: khái quát về hướng tìm tòi và hệ quả chung.
- Điểm qua những gương mặt điển hình cũng như qua các lãnh địa riêng tiêu biểu của các nhà thơ mới qua một số nhà thơ tiêu biểu ta thấy được sự phân hóa đa dạng, bế tắc của ý thức cá nhân.
Câu 4 trang 89: Phân tích cách sử dụng bằng chứng trong nghệ thuật lập luận được Hoài Thanh thể hiện qua văn bản.
Trả lời:
Cách sử dụng bằng chứng trong lập luận của Hoài Thanh vô cùng sáng tạo và góp phần quan trọng làm sáng tỏ luận điểm:
- LD1: Đưa ra sự so sánh đối chiếu để chỉ ra mối quan hệ của Thơ mới và thơ truyền thống
+ Tác giả đưa ra 2 câu thơ khá nổi tiếng trong 2 hoàn cảnh khác nhau, một cái thuộc Thơ mới nhưng lại mạng nét cổ kính và cái còn cái thuộc thơ truyền thống nhưng lại mang nét hiện đại → Sự khác nhau của 2 thể loại không phụ thuộc vào giai đoạn mà phụ thuộc vào cái hay của chúng.
- Chỉ ra điểm khác nhau giữa chúng
+ Trước hết là khi mới lộ diện, tác giả đưa ra dẫn chứng để cho thấy sự khó khăn, rẻ rúng của “cái tôi” trong xã hội lúc bấy giờ: “Ở phương Tây, nhất là từ khi có đạo Thiên Chúa, không bao giờ cá nhân lại bị rẻ rúng đến thế.”
+ Sau khi phân biệt “cái tôi”, “cái ta”, tác giả đưa ra tên tuổi của một số nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư…
- Khẳng định lại sự độc đáo, mới lạ và chưa từng có của Thơ mới.
+ Trích dẫn câu nói của chủ báo Nam Phong: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn.” → khẳng định ngôn ngữ là phương tiện cơ bản để thể hiện cái bản sắc dân tộc. → Để thể hiện cái mới mẻ, cái hay của Thơ mới, tác giả đã sử dụng một hệ thống lập luận chặt chẽ, sắc sảo cũng những dẫn chứng cụ thể để làm nổi bật lên sự mới mẻ, tiến bộ của Thơ mới. Qua đó nhằm khẳng định cái hay, cái đẹp của Thơ mới.
Câu 5 trang 89: Hãy chỉ ra và phân tích giá trị đặc sắc của những biện pháp tu từ được tác giả sử dụng ở cuối văn bản.
Trả lời:
Biện pháp nghệ thuật:
- Điệp ngữ: Chưa bao giờ như bây giờ
- So sánh: Tinh thần nòi giống như các thể thơ xưa chỉ biến thiên chứ không sao tiêu diệt.
Giá trị đặc sắc: Làm cho lời văn nghị luận trở nên sinh động, hấp dẫn hơn. Giúp cho người đọc cảm nhận được tinh thần thơ mới và tình cảm của tác giả, dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt, lấy tinh thần nòi giống, tìm dĩ vãng chỗ dựa tinh thần.
Câu 6 trang 89: Qua văn bản, bạn hiểu được những gì về phong trào Thơ mới và lối văn phê bình của Hoài Thanh.
Trả lời:
- Hiểu biết về phong trào Thơ mới: Theo Hoài Thanh, khái niệm thơ Mới phải được hiểu là mới cả về mặt nội dung và hình thức, mà trước hết là về nội dung, ông cũng cho rằng, thơ ca Việt Nam đi từ thời cổ điển sang hiện đại là đi từ chữ “ta” đến chữ “tôi” (Một thời đại trong thi ca). Ban đầu, thơ Mới được hiểu là thơ tự do nhưng đến chặng phát triển đỉnh cao của nó, khái niệm về thơ Mới được bổ sung và hoàn chỉnh. Thơ Mới là thơ ca phản ánh cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ với tất cả các cung bậc phong phú đa dạng, phức tạp của nó thông qua hình thức nghệ thuật có nhiều đổi mới, cách tân nhằm phát huy cá tính sáng tạo độc đáo của mỗi người nghệ sĩ.
- Lối văn phê bình của Hoài Thanh:
+ Đặt vấn đề rõ, gọn.
+ Dẫn dắt vấn đề khoa học, khéo léo và dễ hiểu, đảm bảo liền mạch trong hệ thống luận điểm.
+ Câu văn nghị luận giàu chất thơ, có sức gợi cảm xúc, gây hứng thú cho người đọc.
+ Nghệ thuật lí luận chặt chẽ, thấu đáo khoa học.
* Kết nối đọc – viết
Bài tập trang 89: Hoài Thanh cho rằng: Các nhà thơ của phong trào Thơ mới đã “dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bạn về ý kiến này.
Đoạn văn tham khảo
Sự xuất hiện của Thơ mới có thể coi là một bước tiến lớn trong văn học, Hoài Thanh cũng khẳng định: Các nhà thơ của phong trào Thơ mới đã "dần tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt." Nếu như các nhà thơ cũ luôn chỉ nhìn vào những cái bao quát, thì các nhà Thơ mới thể hiện một khía cạnh mới mẻ đó là cái cá tính, sự táo bạo của bản thân thể hiện qua những bài thơ có phần phóng túng, lời thơ bay nhảy. Họ đã chứng tỏ cho chúng ta thấy, tiếng Việt cũng đẹp, cũng hay nếu nó được sử dụng đúng cách, đó là tiếng nói của quê hương, dân tộc bởi vậy nó phải thể hiện tâm tư, nguyện vọng của những người sống trong dân tộc đó. Chính vì sự nhận thức đó, các nhà Thơ mới thực sự đã kéo thơ ca đến gần với những giá trị to lớn hơn, đó là tình yêu quê hương, đất nước ẩn sau sự giàu đẹp của tiếng Việt.