A. PHẦN KIỂM TRA ĐỌC: (10 điểm)
I. Đọc thành tiếng: (4 điểm)
- GV cho học sinh đọc văn bản bài “Cậu bé gặt gió” (trang 79) Tiếng Việt 4 Tập 2 - (Chân trời sáng tạo)
- Dựa vào nội dung bài đọc, HS trả lời câu hỏi: Theo em, việc chế tạo thành công chiếc cối xay gió đã mở ra những gì cho tương lai của Uy-li-am và những người dân trong vùng?
II. Đọc thầm và làm bài tập: (6 điểm)
Đọc đoạn văn sau:
TIẾNG HÁT BUỔI SỚM MAI
Rạng đông, mặt trời tỏa những tia nắng dịu dàng xuống muôn vật.
Bên bìa rừng có một bông hoa lạ, năm cánh mịn như nhung. Bông hoa tỏa hương thơm ngát. Quanh nó, thấp thoáng những cánh bướm dập dờn.
Mặt trời mỉm cười với hoa. Thế là bông hoa cất tiếng hát. Nó hát mãi, hát mãi. Cuối cùng, nó hỏi gió xem thích bài hát đó không.
Gió ngạc nhiên:
– Ơ, chính tôi hát đấy chứ. Tôi đã làm những cánh hoa của bạn đung đưa, tạo thành tiếng lao xao nên bạn cứ tưởng mình hát.
Hoa lại hỏi sương. Những hạt sương long lanh trả lời:
– Bạn nhầm rồi! Đó chính là tiếng ngân nga thánh thót của chúng tôi.
Tranh cãi mãi, chẳng ai chịu ai. Hoa, gió và sương quyết định hỏi bác gác rừng. Bác gác rừng ôn tồn giải thích:
– Mỗi buổi sáng sớm, khi mặt trời bắt đầu sưởi ấm vạn vật, muôn loài đều hân hoan hát ca. Nhưng mỗi loài đều có tiếng hát của riêng mình. Có biết lắng nghe nhau mới hiểu được tiếng hát của nhau, các cháu ạ.
(Theo Truyện nước ngoài)
Câu 1. Hoa hỏi gió điều gì? (0,5 điểm)
A. Bạn có thích bài hát của tôi không?
B. Bạn có thích hát cùng tôi không?
C. Bạn hát hay tôi hát nhỉ?
D. Có phải vừa rồi bạn hát không?
Câu 2. Vì sao hoa, gió và sương đều không nghe được tiếng hát của nhau? (0,5 điểm)
A. Vì mỗi vật đều hát quá to, lấn át tiếng hát của nhau.
B. Vì gió và sương đung đưa, ngân nga hát thánh thót.
C. Vì mỗi vật đều chỉ tập trung vào tiếng hát của bản thân.
D. Vì mỗi vật vừa hát vừa nói chuyện.
Câu 3. Câu chuyện khuyên chúng ta điều gì? (0,5 điểm)
A. Không nên cãi vã với mọi người xung quanh.
B. Loài nào cũng biết ca hát bằng giọng của chính mình.
C. Cần tôn trọng những vẻ đẹp của mọi người xung quanh.
D. Hãy biết lắng nghe để hiểu nhau hơn.
Câu 4. Nêu công dụng của dấu gạch ngang trong đoạn văn sau: (1 điểm)
Các cô cậu học trò nhìn lên trời và suy nghĩ. Sau vài phút, một em nói:
– Bầu trời xanh như mặt nước mệt mỏi trong ao.
– Vì sao mặt nước lại mệt mỏi? – Thầy hỏi.
– Thưa thầy, mùa hè, nước dạo chơi cùng những làn sóng. Mùa thu, nó mệt nên đứng yên với màu xanh nhạt.
(Theo Xu-khôm-lin-xki)
................................................................................................ ................................................................................................
Câu 5. Em hãy tìm thành phần thứ nhất trong các câu sau và điền vào bảng bên dưới: (1 điểm)
(1) Minh chợt nhớ đến ngày giỗ ông năm ngoái. (2) Hôm đó, bà ngoại sang chơi nhà em. (3) Mẹ nấu chè hạt sen. (4) Bà ăn, tấm tắc khen ngon. (5) Lúc bà về, mẹ lại biếu bà một gói trà mạn ướp sen thơm phức.
Câu |
(1) |
(2) |
(3) |
(4) |
(5) |
Chủ ngữ |
|
|
|
|
|
Câu 6. Tìm câu chủ đề trong đoạn văn sau và cho biết câu đó nằm ở vị trí nào trong đoạn: (1 điểm)
Những bác ong vàng cần cù tìm bắt từng con sâu trong ngách lá. Kia nữa là họ hàng nhà ruồi trâu có đuôi dài như đuôi chuồn chuồn, đó chính là những “hiệp sĩ” diệt sâu róm. Lại còn những cô cậu chim sâu ít nói, chăm chỉ. Những bác cóc già lặng lẽ, siêng năng. Tất cả đều lo diệt trừ sâu bọ để giữ gìn hoa lá.
(Theo Vũ Tú Nam)
................................................................................................ ................................................................................................ ................................................................................................
Câu 7. Dùng dấu “/” để ngăn cách các thành phần trong câu và ghi “CN” dưới chủ ngữ, “VN” dưới vị ngữ, “TN” dưới trạng ngữ: (1,5 điểm)
a. Hàng ngàn bông hoa là hàng ngàn ngọn lửa hồng tươi.
................................................................................................
b. Chúng có bộ lông vàng óng.
................................................................................................
c. Mùa xuân, cây gạo gọi đến bao nhiêu là chim ríu rít.
................................................................................................
B. PHẦN KIỂM TRA VIẾT: (10 điểm)
1. Nghe – viết (4 điểm)
LENG KENG ĐÀ LẠT
(Trích)
Vó ngựa khua giòn phía trước
Sau lưng lắc lư tiếng cười
Lục lạc leng keng dốc vắng
Quả thông già nào vừa rơi...
Con đường chầm chậm trôi trôi
Thấp thoáng hàng cây, phố xá
Bé thả hồn ra bốn phía
Không say xe mà say sương.
Cao Xuân Sơn
2. Tập làm văn (6 điểm)
Tả chú chó mà em yêu thích.
ĐÁP ÁN
A. PHẦN KIỂM TRA ĐỌC: (10 điểm)
I. Đọc thành tiếng (4 điểm)
- Đọc trôi chảy, lưu loát, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ, tốc độ đạt yêu cầu đạt 4 điểm. Tùy theo mức độ đọc của học sinh mà giáo viên cho điểm.
- Trả lời câu hỏi: Việc chế tạo thành công chiếc cối xay gió đã mở ra tương lai của Uy-li-am và những người dân trong vùng: Nó sẽ giúp gia đình Uy-li-am kiếm được nhiều tiền hơn, đồng thời giúp gia đình Uy-li-am cũng như người dân trong làng có điện để sinh hoạt, sản xuất, qua đó gia tăng năng xuất.
II. Đọc thầm và làm bài tập: (6 điểm)
Câu 1. (0,5 điểm)
A. Bạn có thích bài hát của tôi không?
Câu 2. (0,5 điểm)
C. Vì mỗi vật đều chỉ tập trung vào tiếng hát của bản thân.
Câu 3. (1 điểm)
D. Hãy biết lắng nghe để hiểu nhau hơn.
Câu 4. (1 điểm)
Dấu gạch ngang trong đoạn văn trên có tác dụng đánh dấu lời nói trực tiếp của nhân vật.
Câu 5. (1 điểm)
Câu |
(1) |
(2) |
(3) |
(4) |
(5) |
Chủ ngữ |
Minh |
bà ngoại |
Mẹ |
Bà |
mẹ |
Câu 6. (1 điểm)
- Câu chủ đề là: “Tất cả đều lo diệt trừ sâu bọ để giữ gìn hoa lá.”
- Câu chủ đề nằm ở cuối đoạn.
Câu 7. (1,5 điểm)
a. Hàng ngàn bông hoa/ là hàng ngàn ngọn lửa hồng tươi.
CN VN
b. Chúng/ có bộ lông vàng óng.
CN VN
c. Mùa xuân/, /cây gạo/ gọi đến bao nhiêu là chim ríu rít.
TN CN VN
B. KIỂM TRA VIẾT: (10 ĐIỂM)
1. Chính tả (4 điểm)
- Viết đúng kiểu chữ thường, cỡ nhỏ (0,5 điểm):
0,5 điểm: viết đúng kiểu chữ thường và cỡ nhỏ.
0,25 điểm: viết chưa đúng kiểu chữ hoặc không đúng cỡ chữ nhỏ.
- Viết đúng chính tả các từ ngữ, dấu câu (3 điểm):
Viết đúng chính tả, đủ, đúng dấu: 3 điểm
2 điểm: nếu có 0 - 4 lỗi;
Tùy từng mức độ sai để trừ dần điểm.
- Trình bày (0,5 điểm):
0,5 điểm: nếu trình bày đúng theo mẫu, chữ viết sạch và rõ ràng.
0,25 điểm: nếu trình bày không theo mẫu hoặc chữ viết không rõ nét, bài tẩy xóa vài chỗ.
2. Luyện tập (6 điểm)
- Trình bày dưới dạng một bài văn, tả chú chó mà em yêu thích, câu văn viết đủ ý, trình bày bài sạch đẹp, rõ ràng: 6 điểm.
- Tùy từng mức độ bài viết trừ dần điểm nếu bài viết không đủ ý, trình bày xấu, không đúng nội dung yêu cầu.
Bài làm tham khảo:
Mỗi ngày, khi đi học về, em luôn được chào đón vô cùng nồng nhiệt từ khi chưa mở cổng để vào nhà. Thành viên luôn đón em đầu tiên ấy chính là chú chó đáng yêu của em.
Chú chó có tên là Nắng. Chú có tên như vậy bởi vì bộ lông vàng óng ánh như nắng mặt trời của mình. Thuộc giống chó Golden đã hai tuổi, nên kích thước cơ thể của Nắng khá to và chắc chắn. Chú có thể dễ dàng đè nặng lên vai em mà chẳng cần bật nhảy. Bộ lông của Nắng khá dài vì trời đang vào mùa rét lạnh. Mỗi khi vào hè, bố sẽ giúp chú tỉa lông để mát mẻ hơn. Nhưng phải công nhận rằng, bộ lông của Nắng vừa mềm lại còn mượt mà, vuốt thích vô cùng. Mỗi khi chú chạy, thì bộ lông xõa tung ra như một chiếc sóng nước vậy.
Cái đầu của Nắng to đến hai bàn tay của em chưa che hết. Cái trán chú dô và cứng cáp thường dụi vào chân em khi muốn đi chơi. Đôi mắt thì đen láy, to tròn long lanh còn hơn cả đôi mắt búp bê nữa. Đầu mõm của chú thì tròn, với đầu mũi cũng tròn nốt, đen bóng. Thêm cái tai to thường cụp xuống, tất cả tạo nên một vẻ ngoài hết sức đáng yêu và vô tội cho Nắng. Nhờ vẻ ngoài đó, mà mấy lần chú thoát tội khi dám đi chơi xa hay tha dép của mọi người.
Chân của Nắng khá to, chừng cổ tay của em cơ. Với phần đệm thịt dày ở dưới bàn chân, Nắng chạy rất nhanh và khỏe. Chú có thể chạy cùng với xe máy của mẹ cơ. Kể cả bật nhảy chú cũng giỏi lắm. Mỗi khi bố ném bóng chú đều có thể xuất sắc đuổi theo và nhảy lên chộp lấy. Đó là trò chơi mà cả bố và Nắng đều yêu thích. Chiều nào cũng chơi hoài mà không thấy chán.
Cái đuôi của Nắng cũng cụp xuống như phần tai của nó vậy. Vì cơ thể to lớn nên đuôi của nó cũng to và dài lắm. Chính vì cái đuôi cụp xuống như thế, nên khi nó vui mừng thì sẽ lắc hông luôn cùng chiếc đuôi. Thành ra cả cơ thể nó cứ quắn quéo trông mắc cười lắm. Khi chú mà phấn khích quá, thì sẽ nhảy lên rồi nhảy xuống, vặn trái vặn phải, nằm xoài ra đất liên tục rất ngộ nghĩnh. Nhưng dù vậy, chú cũng không hề va vào người khác. Chính vì sự thông minh ấy mà ai cũng quý Nắng cả.
Tuy là giống chó nước ngoài, nhưng Nắng sống rất Việt Nam. Chú ăn cơm với cá, uống nước dừa và sẵn sàng ăn cả bim bim nữa. Chú còn được mẹ yêu thương, mua cho mấy cái áo hồng mặc chống rét cơ. Bố cũng thương chú mà mua gỗ về, tự tay đóng một cái chuồng to và sạch sẽ cho Nắng ở. Cả nhà ai cũng quý, cũng thương Nắng hết.