“Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông.
Trai du gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân đã biết xuân chăng tá,
Cọc nhổ đi rồi, lổ bỏ không!”
Đánh đu là một trò chơi dân gian đã có từ lâu đời ở nước ta. “Hồng Đức Quốc âm thi tập” của “Hội Tao đàn” trong thế kỉ XV cũng có bài thơ “Cây đánh đu” mà cặp câu thực và luận của hai bài thơ rất giống nhau.
Trong các lễ hội làng quê, đặc biệt trong dịp Tết mừng xuân, trò chơi đánh đu của trai gái diễn ra tưng bừng náo nhiệt nhất. Hai câu đề thể hiện một cái nhìn thú vị trước cột đu và một tiếng khen thầm buột ra, khi nhà thơ đi qua bãi chơi đu đầu làng, cuối xóm:
“Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông”.
Hai chữ “'khéo khéo” làm cho lời thơ, tình thơ trở nên đậm đà. Ai đã “khéo khéo trồng” cây đu, ai đã nghĩ ra trò chơi đu mà vui thế: “Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông”. Tâm hồn nữ sĩ hòa nhập với niềm vui của trai gái đang chơi đu, mà nghĩ về một trò chơi, một mĩ tục dân gian lâu đời rất đáng tự hào. Các đông từ “lên đánh” và “ngồi trông” hô ứng nhau, gợi tả không khí chơi đu vừa nhịp nhàng vừa vui nhộn, tấp nập.
Đánh đu có cảnh đánh đơn nam, đơn nữ, có cảnh đánh đôi nữ, đôi nam, lại có cảnh nam nữ cùng đánh đôi. Hai câu thực tả cảnh đánh đôi nam, nữ. Hình ảnh “trai du” và “gái uốn” gợi tả động tác rất mềm dẻo, uyển chuyển. Tư thế “khom khom cật” rất mạnh mẽ, hào hứng. Động tác “ngửa ngửa lòng” gợi lên một dáng bay nhẹ nhàng, thích thú. Trong cái tài đã có cái tình của trai gái lúc đánh đu. Cảnh đánh đu rất đẹp như đang diễn ra trước mắt chúng ta một sức xuân phơi phới. Gối hạc và lưng ong là hai ẩn dụ đặc tả vẻ đẹp thanh tân của trai gái làng quê trên cánh đu đang tung bay trong gió xuân:
“Trai du gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng”.
Cánh đu mỗi lúc lại tung bay cao hơn, nhịp nhàng hơn, “kẻ ngồi trông” cảm thấy không nhìn rõ khuôn mặt, dáng hình của đôi trai gái đang đánh đu nữa. Chỉ còn nhìn thấy “Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới”. Chỉ còn biết dõi theo và tấm tắc “Hai hàng chân ngọc duỗi song song”. Cảnh chân lấm tay bùn, màu quần thâm áo nâu đời thường đã biến mất. Trong hội xuân, trên cánh đu chỉ có “quần hồng bay phấp phới” và chỉ còn có “chân ngọc duỗi song song”. Đó là sắc xuân, nét xuân và dáng xuân của làng quê trong lễ hội. Và đó cũng là vẻ đẹp trẻ trung, yêu đời của đất nước và con người, của lễ hội mùa xuân và nền văn hóa dân gian Việt Nam giàu đẹp.
Mùa xuân đẹp mãi với dáng xuân, sắc xuân tung bay:
“Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song”.
Xuân tàn, hội tan, biết bao tiếc nuối bâng khuâng trong lòng người. Nhìn bãi đu sau ngày hội tan mà ngẩn ngơ, luyến tiếc:
“Chơi xuân đã biết xuân chăng tá,
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!”.
Có yêu đời, yêu cái đẹp trong cuộc đời, trong lễ hội mùa xuân, nữ sĩ mới có niềm luyến tiếc, ngẩn ngơ ấy.
Mùa xuân trôi qua. Và bao giờ mùa xuân trở lại?
“Đánh đu” cho thấy tính sáng tạo trong thi ca của “Bà chúa thơ Nôm”. Ngôn từ nhất khí, liền mạch. Giọng thơ hồn nhiên, hóm hỉnh. Một cách nhìn sắc sảo, yêu đời. Một cách cảm rất tài hoa đầy tính nhân văn.
Bài thơ “Đánh đu” đã làm sống lại trong lòng ta một nét đẹp lễ hội dân gian mùa xuân đáng yêu vô cùng.