Phân tích bài thơ Lai Tân - Bài làm 1
Nhật kí trong tù (1942 - 1943) tập thơ xuất sắc, giàu tính chiến đấu, chất trí tuệ và đậm chất trữ tình của nhà thơ lớn Hồ Chí Minh. Tập thơ có hình thức nhật kí, đa dạng về bút pháp, giọng điệu trong đó bút pháp tự sự trào phúng chủ yếu để chê giễu, châm biếm, lên án nhà tù và chế độ xã hội Trung Hoa dân quốc. Bài thơ Lai Tân sử dụng bút pháp tự sự trào phúng giàu chất trí tuệ.
Ba câu thơ đầu được thuật chuyện các nhân vật:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn huyện trưởng làm công việc
Tác giả không nêu tên mà chỉ điểm danh từng người một, chức vụ gắn với trọng trách xã hội trong bộ máy công quyền, họ phải làm gương cho dân chúng trong việc thực thi pháp luật. Cách điểm danh và kể việc rành mạch tưởng như ai lo phận nấy, theo đuổi một cách mẫn cán. Nhưng họ đã làm việc gì.
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc. Đánh bạc là phạm pháp, đánh bạc ở ngoài quan bắt tôi thế mà trong tù đánh bạc được công khai nên chủ ngục đánh bạc nhiều hơn ai hết. Bọn quan coi ngục đã coi thường luật pháp. Cảnh sát trưởng bắt người vô tội để họ chạy vạy, lo lót, xin xỏ. Tên này rất ranh ma, dụng chuyện để ăn hối lộ. Còn khi chuyển lao thì tìm cách ăn chặn tù nhân. Hành vi của hắn thật bẩn thỉu, đê tiện.
Huyện trưởng chong đèn làm việc thâu đêm, ông ta làm việc gì không được biết. Hút thuốc phiện? Đồi bại đến thế! Soạn công văn ? Chăm chỉ làm việc mà không biết cấp dưới thao túng, lũng đoạn, nhũng nhiễu dân chúng. Hắn chỉ là một viên quan làm vì, dốt nát nên dễ bị cấp dưới qua mặt. Bất tài, vô trách nhiệm như thế là cùng. Hay là có biết nhưng làm ngơ, có mắt mà như mù. Vậy thì cá mè một lứa, một bè lũ quan lại tham nhũng thối nát. Ý thơ lấp lửng gợi được nội dung nhiều chiều.
Phép liệt kê quan chức từ nhỏ đến lớn và phép tăng tiến cho thấy phạm vi hiện thực được mở rộng dần theo từng cấp bậc, chức càng cao càng hủ bại. Phép điệu cú cho thấy công việc của bọn họ khá nhịp nhàng, rành rạch và bức tranh hiện lên sinh động như màn kịch câm.Việc làm của họ quên thuộc đến mức gần như vô thức.
Bộ máy cai trị vẫn cứ chạy đều, nhịp sống vẫn diễn ra bình thường. Trong quy luật sinh học, cái đột biến mà phổ biến thì trở thành thường biến. Sinh học chỉ ghi nhận cái thường biến để nhận thức bản chất đối tượng. Cái bất thường được lặp đi lặp lại hóa ra bình thường, ở Lai Tân cái thối nát đến cực đại trở thành sự thường, thành nền nếp quy củ hẳn hoi, họ rất khéo léo che đậy nên cuộc sống vẫn yên ổn. Đó là cái đáng sợ nhất. Tiếng cười phê phán châm biếm có chiều sâu trí tuệ là ở đó.
Hai câu thơ đầu tác giả vạch rõ ra cái thối nát của ban trưởng, cảnh sát trưởng. Câu thứ ba lại bỏ lửng càng tăng thêm ý vị mỉa mai trào lộng. Câu thơ kết bình luận, đánh giá sự việc đã được kể. Theo mạch tự sự thì câu thơ cuối mang nội dung phê phán nhưng tác giả kết luận ngược.
Trời đất Lai Tân vẫn Thái Bình
(Lai Tân y cựu thái bình yên)
Thối nát như vậy thì "thái bình" sao nổi. Đang loạn đấy chứ. "Y cựu" đối với "Lai Tân". Lai Tân mà văn như xưa. Nghĩa là cái thối nát thành nề nên không đổi. Tiếng cười mỉa mai chua chát toát ra tư cách nói ngược và nghệ thuật chơi chữ ấy. Hay đây là lời nhận xét bao biện của bọn chúng. Tiêu cực thi có nhưng cuộc sống vẫn yên ổn, đất nước thì "vẫn thái bình, thịnh trị". Lời ngụy biện mị dân ấy thật là tội lỗi quá lớn. Cái vỏ bề ngoài bình yên nhưng bên trong rường cột bị đục khoét rỗng cả rồi. Cái trời đất Lai Tân này sắp sụp đổ.
Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh thế giới đang chao đảo vì chiến tranh. Nước Trung Hoa cũng đang tang tốc vì bọn phát xít. Trong khi:
Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận
Hoàn cầu bốc lừa rực trời xanh.
Thì bọn chúng ở góc huyện này vẫn rung đùi hưởng thụ và đục khoét dân chúng, ở đâu đánh giặc cứ đánh, chúng vẫn an nhiên hưởng "thái bình". Bọn chúng là lũ giặc nội xâm. Lai vung đang đại loạn. Một chữ thái bình đã xé toạt bức màn dối trá, phơi bày những ung nhọt của xã hội thời Tưởng. Hiện thực này có ý nghĩa tự tố cáo.
Bài thơ thể hiện nội dung chiến đấu sắc sảo, trí tuệ. Lời thơ giản dị nhưng thể hiện bút pháp trào phúng bậc thầy. Nghệ thuật châm biếm nhẹ nhàng mà sâu cay.
Phân tích bài thơ Lai Tân - Bài làm 2
Tập thơ Nhật kí trong tù là tập thơ vô cùng nổi tiếng của cây bút Hồ Chí Minh. Trong tập thơ này, người nghệ sĩ đã thể hiện được sự đa dạng trong bút pháp và giọng điệu, khiến người đọc phải trầm trồ, thán phục. Nổi bật nhất, có lẽ chính là bút pháp tự sự trào phúng được sử dụng trong tác phẩm thơ Lai Tân.
Lai Tân được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt quen thuộc thường gặp trong các sáng tác của nhà thơ Hồ Chí Minh. Ở ba câu thơ đầu, nhà thơ thực hiện đúng chức trách của một “người thư kí trung thành của thời đại”. Bác đã khắc họa lại một cách chân thực và khách quan những hình ảnh “tai nghe mắt thấy” trên đường bị áp giải.
“Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự”
Bức tranh của những kẻ thống trị tại Lai Tân, được thu gọn qua ba chức quan rất oai vệ: ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng. Nhà thơ không “chỉ mặt điểm tên” bất kì một tên quan nào, mà chọn “ngẫu nhiên” những chức vụ lớn nhất, cao nhất tại địa phương này. Từ “trưởng” lặp lại liên tiếp ba lần, cho thấy đây chính là các đại diện đứng đầu cho bộ máy quan lại tại Lai Tân. Họ được bổ nhiệm những chức vụ đó, nhằm trở thành “người đầy tớ của nhân dân”, để chăm lo cho cuộc sống của nhân dân trong địa phương. Chẳng phải tự nhiên mà từ xưa nhân dân ta vẫn gọi họ là “quan phụ mẫu”. Nhưng các quan phụ mẫu ở Lai Tân thật lạ kì.
Rõ ràng là đại diện cho pháp luật, cho công chính liêm minh, cho kỉ cương phép nước, ấy thế mà ngày ngày ban trưởng của nhà giam vẫn đánh bạc đều đều. Nhà giam - nơi giam giữ, trừng trị những kẻ phạm tội, nay lại trở thành nơi diễn ra hành vi trái pháp luật bị nghiêm cấm. Bàn làm việc đưa ra các pháp lệnh trừng trị kẻ gian, nay biến thành sới bạc cho những kẻ nghiện trò trắng đen thỏa mãn đam mê. Từ “thiên thiên” đã cho thấy sự ngang nhiên đến trơ trẽn của kẻ gọi là ban trưởng đó. Hắn thản nhiên thực hiện hành vi xấu xa giữa ban ngày, từ ngày này sang ngày khác một cách trắng trợn, chẳng phải nể nang ai. Đến cảnh trưởng - người đứng đầu đồn cảnh sát - người có trách nhiệm áp giải, trừng phạt những phạm nhân xấu xa. Thì lại ngang nhiên tham lam ăn tiền hối lộ. Nhà thơ trực tiếp dùng từ “tham” để khắc họa hành động và bản chất của kẻ này. Bởi chẳng phải nghi ngờ gì nữa, chắc chắn sự thật cảnh trưởng là một tên tham quan rồi. Chao ôi, sự trơ trẽn đã giúp kẻ đại diện cho công lý ấy mặc sức mà vơ vét, đòi hỏi, cướp đoạt tiền bạc để đổi đen thay trắng.
Hai cấp dưới làm điều xấu lộ liễu giữa thanh thiên bạch nhật như vậy, thế mà huyện trưởng - người đứng đầu, lãnh đạo trực tiếp của họ lại chẳng hề hay biết gì. Điều nực cười hơn nữa là, dù hắn ta đêm nào cũng chong đèn làm việc công. Làm việc chăm chỉ vậy mà lại chẳng hề phát hiện sai phạm nào, thật là khó hiểu. Nhưng thật ra lại chẳng khó hiểu chút nào. Nghệ thuật trào phúng đã được nhà thơ khéo léo triển khai thông qua sự đối lập giữa hai khoảnh khắc ngày - đêm. Các quan con ăn hối lộ, chơi cờ bạc, làm đủ điều sai trái vào ban ngày, còn quan cha thì đến đêm mới chong đèn lên làm việc. Như vậy thì làm sao mà bắt được cái sai để trừng trị. Việc xấu xa, tệ nạn thì làm vào ban ngày, làm trước bao nhiêu người. Còn việc công, việc dân thì phải chờ đêm khuya chong đèn lén lút làm một mình. Sự tương phản mãnh liệt đó khiến người đọc phải bật cười. Tiếng cười phê phán, lên án và chua xót ở dư vị. Không chỉ vậy, cách nhà thơ nhấn mạnh công việc của huyện trưởng là “việc công” càng khiến người đọc thêm nghi ngại. Tại sao phải nhấn mạnh là việc công nhỉ? Có lẽ là bởi vì quan lớn đang mượn việc công để làm việc tư. Mà việc tư phải lấp ló, thập thò trong đêm khuya, thì có lẽ còn nhơ nhuốc hơn những việc mà cấp dưới của hắn dám làm giữa ban ngày. Chỉ mới nghĩ thôi đã thấy thật là ghê gớm.
Dưới sự lãnh đạo của các ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng như vậy thì “Lai Tân y cựu thái bình thiên.” Từ “thái bình” đối lập với hiện thực mà nhà thơ khắc họa ở ba câu thơ đầu tạo nên một sự mâu thuẫn, và từ đó thể hiện sự châm biếm, phê phán của nhà thơ dành cho cái xã hội thu nhỏ ấy. Đắt giá nhất trong câu thơ này là từ “y cựu” tức là vẫn như cũ. Rõ ràng hiện tại trời đất Lai Tân chẳng hề tháo bình một chút nào, thế mà nó vẫn luôn như vậy trong suốt thời gian qua. Thế có nghĩa là bộ máy chính quyền ở đây với đại diện là các ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng “một lòng vì dân” lâu nay vẫn hoạt động như thế. Vẫn trì trệ, kém phát triển, thiếu minh bạch, phải chịu cảnh quan lại tham ô công khai. Sự tồi tệ ấy được duy trì một cách bền vững, không hề thay đổi. Thật đau khổ thay, khi cái xấu xa, bỉ lậu của bộ máy chính quyền phong kiến cũ vẫn đeo gông lên cổ những người dân nghèo tội nghiệp.
Các hình ảnh tương phản làm bật lên tiếng cười trong bài thơ Lai Tân là nét đặc trưng trong bút pháp trào phúng của nhà thơ Hồ Chí Minh. Từ tiếng cười ấy, nhà thơ vạch trần bộ mặt thối nát của chính quyền Lai Tân, của hiện thực xã hội đương thời, của chế độ Tưởng Giới Thạch. Sự châm biếm đó bộc trực, thẳng thắn, không ẩn dụ, quanh co. Nó là đòn tấn công trực tiếp vào cái xã hội thối nát, bất công ấy. Từ đó thể hiện sự thương cảm, xót xa dành cho những người dân xứ Lai Tân đang phải sống trong cái bầu trời “thái bình” giả tạo. Cũng là trào phúng, nhưng cái chất trào lộng trong thơ Hồ Chí Minh vẫn mang đậm tư tưởng của thời đại, của một vị lãnh tụ giàu lòng nhân ái.
Phân tích bài thơ Lai Tân - Bài làm 3
Vào khoảng những năm ba mươi của thế kỷ XX, trên văn đàn Việt Nam đã dần dần có một sự trưởng thành mới. Thi ca giờ đây của Việt Nam không còn bị lệ thuộc vào những quy ước khắt khe của Nho gia rằng tất cả nhà thơ không được bộc lộ cái tài một cách tự do. Bước vào giai đoạn này, mỗi thi sĩ lại hiện diện trên văn đàn với một tư thế rất riêng, của riêng mình. Cũng bởi vì cái riêng này, họ – thi sĩ thời đại mới – đã có những định nghĩa rất khác về thơ. Nếu Xuân Diệu cho rằng
“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”
Thì Hàn Mặc Tử lại nói: “Thi sĩ là người gánh trên vai cả nỗi đau nhân loại”. Câu hỏi đặt ra rằng “nỗi đau nhân loại” đó là gì? Có thể là nỗi phiền muộn “tương tư” như Nguyễn Bính chăng? Hay là tư thế “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” của Huy Cận? Bên cạnh những nỗi đau trên, Hồ Chí Minh cũng đã “vô tình” thêm vào “nỗi đau nhân loại” kia một góc nhìn rất khác. Đó là góc nhìn vào cái xấu xa, thối nát của xã hội. Không còn chỉ là gói gọn trong “vòng trời đất dọc ngang ngang dọc” của đất Việt mà đã chạm đến cái mục rửa của xã hội Trung Quốc do chính quyền Tưởng Giới Thạch đứng đầu lúc bấy giờ. Tuy rằng “ngâm thơ ta vốn không ham” nhưng nếu là con người thì Hồ Chí Minh lại thờ ơ với những gì chướng tai gai mắt thế sao? Chỉ gói gọn trong bài thơ “Lai Tân”, tác giả đã nhẹ nhàng nhưng lại đả kích sâu cay một xã hội
"Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình"
Vì là người tù của chế độ Tưởng Giới Thạch nên không có gì khó hiểu khi tác giả lại vẽ ra một bức tranh hiện thực sắc sảo đến thế. Khi lược đọc qua bài thơ, người ta sẽ dễ dàng nhận thấy một nghịch lý – một nghịch lý rất lớn. Đúng rằng không thể phủ nhận được trong thi ca không được có những nghịch lý. Thi ca vẫn đươc quyền có những nghịch lý. Những nghịch lý đó đôi khi là cảnh “Hầu trời” của Tản Đà hay làm sao có thể được khi Xuân Diệu lại muốn “cắn” vào “xuân hồng”. Tuy là nghịch lý đấy nhưng tất cả đều mang trong mình một nét dễ thương của con người “ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”. Nghĩa là tuy nghịch lý về vật chất nhưng lại hợp lý trong tâm khảm.
Cái nghịch lý ở đây mà Hồ Chí Minh đặt ra cũng thế. Cái nghịch lý này giờ đây đã kèm theo chút nóng giận, bực tức. Làm sao có thể được khi một xã hội “ban trưởng chuyên đánh bạc”, “cảnh trưởng” lại “kiếm ăn quanh” mà “trời đất Lai Tân vẫn thái bình”? Quả thật, nếu như định nghĩa rằng “ban trưởng” là người trông coi nhà lao và “cảnh trưởng” là những người có nhiệm vụ giải tù nhân. Tất cả họ dường như đều chung một công việc là giáo dục tù nhân, giúp tù nhân tốt hơn. Nhưng thực tế thì không phải vậy.
Trong cái nghịch lý chủ đạo đã trình bày thì lại đâu đó nhen nhóm lên những nghịch lý khác. Chính là tại sao trong tù lại có cái nạn đánh bạc? Vẫn biết rằng chính xã hội lúc bấy giờ bên Trung Quốc thì món đánh bạc bị luật cấm. Nếu như anh đánh bạc thì không những anh, mà cả vợ con anh cũng bị liên lụy; còn riêng anh, anh phải đi tù. Đó là một thực tế và thực tế này đã được Hồ Chí Minh phác lại qua một lời ăn năn, hối tiếc của tên tù cờ bạc:
"Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong tù đánh bạc được công khai
Bị tù con bạc ăn năn mãi
Sao trước không vô quách chốn này?"
Chính bài thơ trên đã vẽ ra rất khéo sự lạm quyền đến khốn nạn của chế độ lúc đó. “Con bạc” kia bị tù là đáng rồi, thích đáng cho việc hắn làm. Nhưng làm sao có thể im lặng được khi cái kẻ bắt mình vì tội đánh bạc thì chính y cũng đánh bạc. Thế là cả cai tù và phạm nhân đều là tòng phạm. Cùng đánh bạc với nhau cả thôi, nếu tôi có tội thì anh cũng chẳng thoát; thế mà lấy cái tư cách gì mà anh bắt tôi? Quả đúng như thế, vị quan kia không có tư cách để “bắt tội” nhưng hắn có quyền. Hắn có quyền, cái quyền mà chế độ Tưởng Giới Thạch đã “ban tặng” cho hắn. Và rồi cái nghịch lý ở đây là nhà lao giờ đây đã bị biến thành sòng bạc “được công khai”. Tại đây, ngay cái nơi mà tù nhân ước gì mình đừng vô đây lại được cấp giấy phép đánh bạc. Ngay cả đến “con bạc ăn năn mãi”: Thà lúc trước vào đây đánh bạc để khỏi bị kết tội. Nực cười chăng? Cũng có thể. Chua cay chăng? Cũng có thể. Đau đớn chăng? Cũng có thể. Cái nhà tù Tưởng Giới Thạch là thế đấy!
Và rồi, không chỉ có nạn đánh bạc vậy đâu mà nơi đây còn bị Hồ Chí Minh chụp ảnh lại:
“Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh”.
Lại thêm cái nạn hối lộ. Đã quá đong đầy những sự thối nát, mục rửa của nhà tù Tưởng Giới Thạch. Khi bước vào lao tù, phạm nhân luôn ý thức rằng này đây mình sẽ bị đánh, bị đối xử có thể thậm chí như một súc vật. Biết là thế nhưng nếu với ý nghĩa nhà tù là nơi cải tạo phạm nhân thì lại sao có cái tình trạng hối lộ? Nghịch lý! Ở một bài thơ khác, tác giả cũng đã khắc lại cái trớ trêu, cái khốn nạn của thói ăn hối lộ này một cách rất chân thực:
"Mới đến nhà lao phải nộp tiền
Lệ thường ít nhất năm mươi nguyên
Nếu anh không có tiền đem nộp
Mỗi bước anh đi một bước phiền"
Thì ra cái thói ăn hối lộ là một “lệ thường”. Bây giờ đã rõ đến tận gốc rễ của sự việc. “Cảnh trưởng” dường như có được cái quyền làm cho “mỗi bước anh đi một bước phiền” nếu như tù nhân không có “năm mươi nguyên” đem nộp. Ở nơi “tối tăm mù mịt ấy”, tác giả đã thấy, đã chua xót, đã cay đắng vì cái nghịch lý khốn nạn, trớ trêu này. Dường như tác giả đang tìm một sự hợp lý nào đó.
“Chong đèn, huyện trưởng làm công việc”
Tưởng chừng như “huyện trưởng” là một vị quan rất lo cho dân, rất thương dân nên khi đêm đã về, vạn vật như chìm đắm trong giấc mộng thì ông lại “thiêu đăng” để làm việc. Điều này thật là quý hóa! Nhưng câu hỏi đặt ra nếu như ông ta lo lắng cho dân, cho nước như thế thì tại sao cấp dưới của ông ta lại xảy ra, xuất hiện những thói đời như thế. Phải chăng ông là người có tài nhưng lại bất lực; hay ông cố tình cho qua và “cho phép” cấp dưới được quyền như thế? Vấn đề đặt ra tiếp theo rằng phải chăng “huyện trưởng” đã được cấp dưới đút lót? Đó quả là một câu hỏi lớn – một câu hỏi phải để cho chính chế độ đó trả lời. Một mặt khác, nếu như đánh đồng những đối tượng trong ba câu thơ đầu thì có lẽ “huyện trưởng” hằng đêm “thiêu đăng” để hút thuốc phiện. Không phải một cách cường điệu mà ghép hết tội này đến tội khác cho ông; nhưng dù có cố tìm một lý do chính đáng cho những hành động giữa đêm như thế trong bối cảnh này cũng là khó khăn.
Chỉ cần lướt qua ba câu thơ đầu của “Lai Tân”, người đọc đã có thể thấy đó như một thước phim mà tác giả đang cố tái hiện lại một cách chân thực. Thước phim này chiếu lại một bộ máy cai trị ở Lai Tân gồm “ban trưởng”, “cảnh trưởng”, “huyện trưởng” với những việc làm xem ra là bình thường trong cái xã hội bấy giờ. Bình thường đến mức tầm thường! Thực tế là vậy. Một điều minh nhiên rằng cái xã hội đó sẽ không “thái bình”. Nhưng đến câu cuối bài thơ, với tất cả những sự việc như thế mà tác giả lại kết luận rằng:
“Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”
Dường như là dửng dưng và vô cùng nghịch lý. Tuy là thế nhưng tác giả đã sâu cay đả kích một cách nhẹ nhàng nhưng lại thấm thía. Nhãn tự “thái bình” đồng thời vừa vạch ra một nghịch lý, vừa vẽ ra một hợp lý mang “phong cách” Tưởng Giới Thạch. Phải chăng “thái bình” là do được sự đồng lòng nhất quán từ “cảnh trưởng”, “ban trưởng” đến “huyện trưởng”. Tất cả đều như nhau, cũng thối nát, mục rữa. Lại thêm với nhãn tự “thái bình”, tác giả dường như đang khẳng định rằng tình trạng của chế độ thống trị xã hội Trung Quốc bấy giờ vẫn xảy ra bình thường, không có gì phải lạ cả, thậm chí điều đó gần như là bản chất của guồng máy cai trị ở đây. Chỉ cần như thế thôi, tác giả đã mỉa mai châm biếm cái xã hội dưới thời Tưởng Giới Thạch đó một cách sâu sắc đến vậy. Sâu sắc là bởi thi nhân đã nhìn thấy vào trong cái sự thật đã được che đậy bằng bề mặt giả tạo của bộ máy cai trị này.
Hồ Chí Minh dường như đã thật sự trở thành một thi sĩ vì tác giả đã “gánh trên vai cả nỗi đau nhân loại”. Thi nhân vừa thương vừa đả kích mạnh mẽ. Bút pháp châm biếm nhẹ nhàng mà thấm thía cùng nhãn tự “thái bình” đặc biệt xen giữa nhịp thơ 4/3 đã giúp thi sĩ hoàn thành “Lai Tân”. Rất chính đáng, vô lý nhưng lại có lý hết lời!
Phân tích bài thơ Lai Tân - Bài làm 4
"Nhật kí trong tù" là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Hồ Chí Minh. Nổi bật và đặc sắc phải kể đến bài thơ 97 - " Lai Tân" trích trong tập thơ. Bài thơ đã phản ánh, phê phán, mỉa mai, bóc trần,... bộ mặt của những người đứng đầu cai quản nhà tù cũng như xã hội thời bấy giờ.
Mở đầu bài thơ chính là sự thối nát, xấu xí,....của giai cấp thống trị-những con người đứng đầu các cấp, nắm giữ quyền lực, thực thi luật pháp:
"Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc
Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải
Huyện trưởng chong đèn làm việc công"
Ba câu thơ đầu của bài thơ đã cho ta một cái nhìn hiện thực về những con người thực thi pháp luật cũng như xã hội Trung Quốc bấy giờ. Đầu tiên là "ban trưởng đánh bạc". Chúng công khai đánh bạc trước mặt những người phạm nhân không phải chỉ một ngày mà là ngày ngày. Kẻ cầm đầu chính là ban trưởng - người thực thi pháp luật. Ban trưởng bấy giờ cũng như phạm nhân, tất cả lao đầu vào những lá cờ đỏ đen, bài bạc, nơi thực thi công lí, pháp luật lại biến thành sòng bài. Không phải chỉ ở đây ta mới bắt gặp cảnh này mà ở bài thơ "Đánh bạc" của Bác cũng đã khắc họa bức chân dung rõ nét nhất về cảnh bài bạc trong ngục tù:
"Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong tù đánh bạc được công khai
Vào tù con bạc ăn năn mãi:
Sao trước không vô quách chốn này"
Châm biếm, lên án một cách hóm hỉnh, qua mỗi hình ảnh ta lại càng cảm nhận sâu sắc, hiểu rõ hơn về vấn đề bài bạc trong nhà tù. Không chỉ có ban trưởng, mà đến cảnh trưởng cũng "tham lam ăn tiền phạm nhân". Ban trưởng thì bài bạc còn cảnh trưởng thì kiếm tiền từ những dân đen nghèo khó. Thay vì là nơi pháp luật nghiêm minh đây lại là nơi để chúng lợi dụng, trục lợi cá nhân. Những tưởng nhà tù là nơi để dẹp loạn, giúp dân thì nơi đầy lại chính là nơi diễn ra những gì thối tha, bần tiện, xấu xa nhất,.....Thật là một cảnh tượng xấu xí, thối nát của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Những tưởng cấp dưới hành động như thế thì cấp trên sẽ chỉnh đốn, sắp xếp, phạt nặng nhưng không, huyện trưởng vẫn "chong đèn làm việc".
Thái độ châm biếm, mỉa mai của tác giả càng làm ta thấy rõ bức tranh mục nát của nhà tù cũng như xã hội bấy giờ. Tại sao cấp dưới lại dám lộng hành như vậy? Chẳng phải là do sự ngầm cho phép, mắt nhắm mắt mở của cấp trên sao. Hắn chỉ để ý tới công việc của mình mà bỏ bê muôn dân. Từ sự châm biếm, lên án một cách hóm hỉnh, nhẹ nhàng mà thâm thúy của tác giả qua các câu chữ, hình ảnh ta đã thấy được sự thối nát, xấu xí của quan lại cũng như xã hội thời bấy giờ.
"Trời đất Lai Tân vẫn thái bình"
Câu thơ cuối cùng bài thơ khiến người đọc băn khoăn. Tại sao trước một xã hội thối nát như vậy thì lại có thể "thái bình" cho được. Nhưng đây chỉ là thủ pháp nói ngược của Bác mà thôi. Hóa ra từ xưa tới giờ Lai Tân "vẫn thái bình" như vậy. Từ "vẫn" thể hiện rõ sự khinh bỉ, châm biếm của tác giả. Tưởng chừng như những thói hư tật cái xấu trong nhà tù, xã hội là bất thường nhưng lại là bình thường. "thái bình" chính là sự ẩn nấp của những thói hư tật xấu, tệ nạn đang diễn ra trong xã hội. Qua tất cả, Hồ Chí Minh đã cho ta thấy sự thật về sự thối nát, lên án, đả kích tới chế độ nhà tù ở Tưởng Giới Thạch cũng như xã hội Trung Quốc bấy giờ.
Bài thơ "Lai Tân" đã khái quát được bộ mặt bộ mặt xấu xa, bỉ ổi của những con người cấp cao nhà tù Tưởng Giới Thạch. Bút pháp châm biếm nhẹ nhàng mà thâm thúy đã khiến "Lai Tân" trở nên vô cùng đặc sắc. Lời thơ ngắn gọn, không quá cầu kì trau chuốt, chỉ với bốn câu thơ thôi mà vị anh hùng dân tộc đã nói lên tiếng nói căm phẫn thay cho tiếng lòng của hàng triệu người vô tội, những con người chán ghét thói ích kỷ, cậy quyền, yêu chính nghĩa và đấu tranh vì chính nghĩa.